Đề số 1: Chứng minh nhận định về phong trào thơ mới: Với thơ mới thi ca Việt Nam bước vào giai đoạn mới, thơ mới đã làm nên một cuộc cách mạng thơ ca, nó đã thay đổi từ “xác” đến “hồn”.
Sinh thời, Bác Hồ đã từng quan niệm “xã hội nào thì văn nghệ ấy”, đúng như vậy! hoạt động lĩnh vực nghệ thuật trong đó có văn chương luôn đổi mới để phù hợp với sự tiến bộ của xã hội, sự thay đổi đó sẽ từng bước hình thành và phát triển theo lối tư, duy sáng tạo về cả mặt khách quan và chủ quan của người nghệ sĩ. Xuất hiện vào những năm 30 của thế kỷ 20. Thơ mới là một minh chứng tiêu biểu cho sự cách tân, đổi mới. Bàn về điều này đã có ý kiến cho rằng, phân biệt thơ cũ và thơ mới, điều quan trọng nhất không phải ở phần “xác” mà là phần “hồn” của nó. Hay nói như Hoài Thanh ở tinh thần thơ mới, ấy là cái tôi cá nhân nhìn đời nhìn thiên nhiên bằng con mắt tươi trẻ xanh non (Xuân Diệu) đồng thời cảm thấy cô đơn trước vũ trụ và cuộc sống.
Một trào lưu văn học nữa ra đời bao giờ cũng mang những nét riêng, nét mới, nét cải tiến hơn so với những phong trào trước đó. Không phải dĩ nhiên người ta quan niệm với thơ mới, thi ca Việt Nam bước vào một thời đại mới, đó là do những cách tân đích thực mới mẻ mà nó đem lại. Đầu tiên là về phần xác, hay nói cách khác chính là các phương tiện biểu đạt hệ thống nghệ thuật, thơ mới đã phá bỏ các hệ thống ước lệ, các niêm luật chặt chẽ của thơ cũ để thay lớp áo mới. Thế nhưng điều quan trọng không phải ở phần xác, mà là ở phần hồn tức nội dung, tư tưởng, tình cảm mới mẻ của các nhà thơ. Gọi như Hoài Thanh đó là tinh thần thơ mới, đó là cái tôi nhìn đời, nhìn thiên nhiên bằng con mắt tươi trẻ xanh non và còn là cảm thấy cô đơn trước vũ trụ và cuộc sống. Như vậy ý kiến trên đã nhấn mạnh sự lột xác đổi mới hoàn toàn của thơ mới, thể hiện ở nội dung, tư tưởng, tình cảm được bộc lộ.
Giáo sư Lê Đình Kỵ đã cho rằng, “thơ mới là thơ của cái tôi”. Điều này hoàn toàn đúng với thơ xưa, cái bản ngã luôn được đề cao, cái tôi phải nhường chỗ cho cái ta chung. Một số nhà thơ cũ đã vùng vẫy thể hiện cái tôi như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ nhưng vẫn chưa bộc lộ rõ ràng. Sang đến thơ mới điều này đã được thai nghén từ trước và đợi đến thời điểm nó sẽ biểu hiện rõ ràng. Cái tôi trong thơ mới cũng chính là hình thái, phẩm chất. Phần hồn của thơ mới đó là cái tôi cá nhân, nhìn đời, nhìn thiên nhiên bằng con mắt tươi trẻ, xanh non, thậm chí đến khám khổ, vồ vập. Đó còn là cái cô đơn trước vũ trụ và cuộc sống. Nỗi buồn, nỗi cô đơn này thực sự khác rất xa so với thơ xưa. Bởi nó còn là cái nhìn chủ quan, cái hồn bơ vơ lạc lõng giữa dòng đời. Đó còn là nỗi buồn của một tấm lòng yêu nước thầm kín, của các thi nhân. Nhìn một cách tổng quát, thơ mới đã lột xác hoàn toàn và nội dung, tư tưởng bộc lộ rõ ràng cho điều đó.
Thơ mới khác với thơ xưa trước hết chính là cách nhìn đời, nhìn thiên nhiên bằng con mắt tươi trẻ xanh non, một bức tranh thiên nhiên đẹp của thơ xưa phải bắt buộc theo những quy ước chặt chẽ mang tính chất khuôn mẫu.
Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp
Mây, gió, trăng, hoa, tuyết núi, sông”.
( Hồ Chí Minh).
Nhưng thơ mới lại hoàn toàn khác, bức tranh thiên nhiên đẹp còn lại phụ thuộc vào cái nhìn, cái cảm của người nghệ sĩ. Đến với Xuân Diệu, ta thường bắt gặp bức tranh thiên nhiên mùa xuân tràn trề sự sống được. Cảm nhận với tất cả các giác quan bài thơ “Vội Vàng” minh chứng rõ cho điều đó.
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của Yến Oanh này đây khúc tình si”.
Một bức tranh thiên nhiên của mùa xuân như một thiên đường trên mặt đất, đó là “Ong Bướm” dập dìu đi tìm mật ngọt, như đang hưởng thụ tuần trăng mật tươi trẻ và tràn đầy hạnh phúc. Đó là hoa lá trên đồng nội xanh rì, một mầu xanh tràn trề nhựa sống chứ không nhạt, thiếu đi vẻ căng tràn. Bức tranh đó còn là hiện diện của cành tơ vẫy chào mùa xuân, còn là khúc tình si đắm say của chim yến reo vang. Tất cả gợi một bữa tiệc đang chào mời nơi nơi, một bữa tiệc mùa xuân tươi trẻ, xanh non. Cái hồn của thơ mới còn được Xuân Diệu bộc lộ một cách trực tiếp, táo bạo. Nhà thơ đã lấy vẻ đẹp của con người làm thước đo cho vẻ đẹp của thiên nhiên, để đánh giá và bộc lộ tình cảm của mình.
“Và này đầy ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần vui hàng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.
Không còn là cái nắng chói chang của mùa hè yếu ớt, của mùa đông, mùa xuân đến đem theo thứ ánh nắng ấm áp, dịu nhẹ như hàng mi của người con gái đương xuân. Tất cả khiến nhà thơ có cảm giác như ngày nào cũng được “thần vui gõ cửa”, chào mời và rồi phải thốt lên nó đẹp như cặp môi gần của người thiếu nữ đôi mươi. Khu vườn xuân, đài tình ái cùng với cách nghĩ, cách so sánh độc đáo của Xuân Diệu qua thực thật mới mẻ.
Chính cái tôi cá nhân nhìn cuộc đời, nhìn thiên nhiên bằng con mắt tươi trẻ, xanh non đã giúp nhà thơ bộc lộ những ước muốn táo bạo, tước quyền của tạo hóa.
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”.
“Tắt nắng, buộc gió” là việc của ông trời, thế nhưng nhà thơ lại muốn chiếm lĩnh thứ quyền đó. Xuân Diệu muốn “tắt nắng” cho màu sắc trần thế không bị phai mờ, muốn “buộc gió” cho hương hoa hương cỏ không biến mất. Ước muốn táo bạo, lạ lùng có phần ngông cuồng đó lại bộc lộ rất rõ cái tôi của Xuân Diệu, một cái tôi thắm thiết, yêu đời, yêu cuộc sống, một cá tính mới mẻ và độc đáo.
Phần “hồn” của thơ mới là cái tôi cá nhân, nhìn đời, nhìn thiên nhiên bằng con mắt tươi trẻ. Xuân Diệu đã làm được điều đó và bên cạnh Xuân Diệu. Đến với thơ Hàn Mặc Tử tã cũng bắt gặp những phong cảnh thiên nhiên đến đắm say lòng người, bài thơ “Đây Thôn Vĩ Dạ” tuy chỉ là một sáng tác nhỏ của ông, nhưng nó đã bộc lộ rất rõ cái hồn về thiên nhiên của thơ mới.
“Sao anh không về chơi thôn vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.
Khác với mùa xuân trong thơ của Xuân Diệu, đến Hàn Mặc Tử là đến với những điều gì đó bình dị, mượt mà, tinh khôi và hữu tình. Hình ảnh Thôn Vĩ, đây là một minh chứng tiêu biểu. Đó là hình ảnh của nắng mới chiếu lên, những ngọn cau thẳng đứng mới đẹp làm sao. Hay là hình ảnh đẫm Sương đêm của vườn tược thôn vĩ cũng được ánh ban mai chiếu vào, nhìn ánh lên như ngọc. Rồi còn là sự hữu tình của con người xứ Huế, với vẻ mặt phúc hậu, bản chất chăm chỉ hiện lên chỉ bằng vài ba nét vẽ. Thi sĩ họ hẳn đã đưa ta đến cái đẹp tuyệt trần, mỹ lệ của thôn Vĩ Dạ. Hình ảnh thiên nhiên hòa quyện với vẻ đẹp con người tặng cho độc giả những điều không thể quên.
Đã có nhà phê bình văn học từng nhận xét “thơ xưa nhiều cái vô lý”, nước ta không có tuyết mà cứ bắt nói tuyết, cái chủ quan của người viết phải đứng dưới cái khuôn mẫu đã đặt ra. Nhưng thơ mới không như vậy, nó là sự cách tân đổi mới rõ ràng, bức tranh thiên nhiên đâu có tuyết, mây, gió trăng, hoa đâu mà ta vẫn cứ thấy đẹp. Phần hồn của thơ mới thoát ra bộc lộ rõ ràng. ở đây với cái nhìn thiên nhiên tươi trẻ xanh non, nhưng người nghệ sĩ đã đem đến cho độc giả một cái nhìn mới mẻ, độc đáo và hết sức rung động trước cảnh, trước người.
Không những phần hồn thay đổi, từ cái nhìn về thiên nhiên non tơ, tươi trẻ, mà phần hồn của thơ mới còn được bộc lộ sự cô đơn trước vũ trụ và cuộc sống. Thơ xưa ta cũng từng gặp cái buồn đau, thất vọng nhưng nỗi buồn trong thơ mới rất đa dạng, phức tạp. Đến với Xuân Diệu đó là nỗi buồn của sự ngắn ngủi về kiếp người trước thời gian chẩy trôi vô hạn.
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian
Nói làm chi răng Xuân văn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ Chẳng hai lần thăm lại”.
Xuân Diệu nhìn thời gian đầy tính mất mát, Ông nhận ra rằng thời gian thì vô thủy, vô cùng, con người thì chỉ là một cái chớp mắt của khoảng thời gian ấy. Ông quan niệm thời gian là tuyến tính, một đi không trở lại, thi nhân đã lấy tuổi trẻ làm thước đo của thời gian nên ông mới thấy ngắn ngủi, đang từ vui vẻ chuyển sang buồn bã thậm chí là cô đơn và thất vọng.
Nỗi buồn của thơ mới có khi là nỗi buồn về cuộc sống thực tại, điều đó ta bắt gặp trong thơ Hàn Mặc Tử, là một nhà thơ thắm thiết yêu đời, yêu cuộc sống, thế nhưng lại có cuộc đời đau khổ bất hạnh. Trên từng dòng thơ của ông cũng mang rõ điều đó.
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đâu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”.
Xưa nay mây và gió thường đi đôi với nhau, gió thổi mây bay, thế mà Hàn Mặc Tử lại thấy mây, gió chia lìa gợi một sự buồn bã cô đơn đến tuyệt vọng. Đó còn là hình ảnh của dòng nước buồn thiu như ngừng đọng lại, là hình ảnh của hoa ngô khẽ khàng lay chuyển một cách thiếu sức sống, cũng gợi sự buồn bã. Hàn Mặc Tử khi viết thi phẩm này đang nằm trong trại phong Tuy Hòa. Thế nên thơ thường mang hình ảnh trăng, nhà thơ mong trăng như mong ngóng một cái gì đó quý giá, thiêng liêng. Người khác chăng không về hôm nay thì sẽ về ngày mai, nhưng với Hàn Mặc Tử Trăng không về hôm nay thì sẽ đem theo một dư vị gì đó buồn bã, tuyệt vọng.
Nhắc đến nỗi buồn thơ mới, ta không thể không nhắc đến Huy Cận, những vần thơ của ông thao thao như chất chứa nỗi niềm. Đó cũng là một gương mặt, một biểu hiện cho cái tinh thần thơ mới. Bài thơ “Tràng Giang” bộc lộ rõ nỗi buồn của thi nhân của kiếp người nhỏ bé trước vũ trụ bao la, điều đó bộc lộ rõ qua lời đề từ.
“Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”.
Và dân dần hiện ra qua các khổ thơ.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Hình ảnh từng đợt sóng nhỏ lăn tăn trên mặt nước mênh mông “Điệp điệp, trùng trùng”, gợi một cái gì đó bâng khuâng, rồi là hình ảnh con thuyền xuôi mái song song trên dòng nước rất đẹp. Nhưng lại gợi sự cô đơn lẻ loi. Cũng như Hàn Mặc Tử, Huy Cận cũng thấy được sự chia ly giữa thuyền và nước, đó còn là sự đối nghịch lác đác trên sông là những cành củi khô trôi lơ lửng, lạc loài. Cảnh vật rất đẹp nhưng cũng rất buồn, một nỗi buồn bâng khuâng, xao xuyến.
Chưa dừng lại ở đó nỗi buồn của Huy Cận còn là nỗi buồn của sự quạnh hiu, vắng vẻ, không có âm thanh của sự sống, con người.
“Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu
Đầu tiếng làng xa vắng chợ chiều”.
Hay:
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật”.
Con người không xuất hiện làm cho bức tranh trở nên buồn bã thêm, có đâu xuất hiện thì cũng là đâu đó thôi chứ không rõ hình ảnh cây bèo trôi. Cùng với đó là sự không cầu, không đò đã đem đến cái cảm giác trống trải. Để rồi từ đó nhà thơ nhớ về quê hương, đồng thời bộc lộ tình yêu nước thiết tha thầm kín.
“Long quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Quả thực nỗi buồn của thơ mới thật đa dạng, phong phú, nhưng nhìn chung một điểm là nó đều bộc lộ cái tôi sâu sắc thầm kín của thi nhân.
Cái mới, cái để phân biệt thơ mới và thơ cũ là phần “hồn”, nhưng ta cũng không thể phủ nhận hoàn toàn cách tân sáng tạo của phần “xác”. thơ mới đã thoát khỏi những niêm luật chặt chẽ, những quy định dường như trở thành khuôn mẫu của thơ ca xưa như tính quy phạm, tính ước lệ, tính sùng cổ. Thơ mới còn là sự phá cách về thể thơ, vần nhịp, nhạc điệu, ngôn từ, không mang những hình thức gò bó, thơ mới cũng dễ bộc lộ được tấm lòng tình cảm của thi nhân. một cách tân về hình thức chính là để khám phá nội dung. Đến với thơ mới không những ta được gặp những hồn thơ mới đặc sắc, mà còn được gặp những sáp thơm độc đáo, thú vị.
Sự ra đời của phong trào thơ mới, sự xuất hiện của cái tôi là một bước chuyển mình to lớn của văn học nước nhà. nó đã khẳng định sự vận động tự thiên của văn học nói chung và thơ ca nói riêng. Thơ mới đã đóng góp quan trọng cho sự phát triển của thơ ca dân tộc. Đó là nền tảng cho sự phát triển của thơ, thơ ca cách mạng sau này. Thử hỏi không có thơ mới văn học Việt Nam làm sao có được bước chuyển mình toàn diện, nó đã góp phần hiện đại hóa cho nền văn học Việt Nam cả phần “xác” lẫn phần “hồn”. Theo về thơ mới là ta về với cội nguồn dân tộc, đi tìm vẻ đẹp của thiên nhiên và con người đắm chìm trong tình cảm ngọt ngào, đôi khi là sự sẻ chia nỗi buồn. Đọc một câu thơ hay ta không còn thấy câu thơ mà chỉ thấy tình người trong đó, điều đó quả không sai mà.
Với thơ mới thi ca Việt Nam bước vào giai đoạn mới, thơ mới đã làm nên một cuộc cách mạng thơ ca, nó đã thay đổi từ “xác” đến “hồn”. Đó là cái hồn của thiên nhiên tươi non, mượt mà, xanh mát, nhưng cũng là cái hồn của nỗi buồn, sự bơ vơ. Đến với thơ mới những cái tên Như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử là những cái tên để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng độc giả, bởi những sáng tác của nó thoát xác một cách rõ rệt nhất, thể hiện mới mẻ nhất. Có lẽ vì điều đó mà tên tuổi của họ cũng như các sáng tác của các nhà thơ, đó sẽ như bông hoa vĩnh cửu mang hương sắc làm ngất ngây độc giả cả hôm nay và mai sau./
Đề số 2: Nhận xét về thơ mới (năm 1930 - 1945) Hoài Thanh viết ''Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế'' (theo cuốn thi nhân Việt Nam). Ý kiến của em về nhận xét trên.
* Đặt vấn đề:
Giới thiệu về phong trào Thơ Mới. (...)
Chú ý đến đặc điểm chính của Thơ Mới là cái mới, lạ, chất phương Đông kết hợp với phương Tây, hòa quyện làm nên một phong trào thơ ca với những tác phẩm và những nhà thơ tiêu biểu. Xôn xao bởi nó có nhiều cái mới, cái lạ. Và "buồn" bởi cái thế sự lúc bấy giờ và tâm sự của những nhà thơ Mới, họ của nhạy cảm, với bản thân mình và với xã hội đương thời - thơ ơ, dửng dưng.
Nó được thể hiện qua câu nói của Hoài thanh trong "Thi nhân Việt Nam" (Trích dẫn câu của Hoài Thanh.)
* Giải quyết vấn đề:
- Giải thích câu nói của Hoài Thanh (mở rộng thêm chút nữa từ cái chú ý trong phần mở bài).
- Chứng minh qua những bài thơ đã được học:
+ Vội vàng:
Xuâm Diệu - "nhà thơ mới nhất trong nhà thơ mới" - đã đem đến cho làng thơ VN cái vẻ phương Tây đầy mới lạ, ông đem đến sự "xôn xao" mà mãi lâu sau khi ông đến người ta mới "quen" được với nó.
Chứng minh cái "xôn xao" mà Xuân Diệu đem tới:
"Tôi muốn tắt nắng đi
Cho hương đừng bay đi"
Khẳng định cái "tôi" của mình.
Xuân Diệu - người đã đến, "đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới", khám phá thiên nhiên, đất trời, cái đẹp nhân gian.
Nhưng cũng chất chứa trong ông là nỗi buồn, nỗi buồn với khát khao giao cảm mà ngưòi đời thì dửng dưng.
"Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời".
Tuy nhiên, khát vọng yêu thương của Xuân Diệu không bao giờ vơi cạn, cho nên cái buồn của ông luôn chất chứa khát khao, dù lúc vui hay là lúc buồn thì ông luôn có một niềm khát khao đó.
+ Đây thôn Vĩ Dạ:
Hàn Mặc Tử gây xôn xao bởi cái "điên" của ông
Nhưng thực là buồn nhiều hơn. Nỗi đau thể xác khiến ông bấn loạn về tinh thần, đau đớn nhưng luôn khát khao giao cảm.
"Gió theo lỗi gió mây đường mây..."
+ Tràng Giang.
Tuy nhiên, nỗi buồn của Huy Cận là nỗi "buồn thế hệ" (cuộc đời vô tâm, rồi thêm nỗi buồn quê hương), cái buồn cô đơn lạc, lõng, cái buồn thẳm mà "ta trở về hồn ta cùng Huy Cận".
Có lẽ Huy Cận là một nhà thơ "buồn" của phong trào thơ Mới.
(dẫn chứng từ bài thơ)
+ Có thể chứng minh thêm ở bài "Nhớ rừng" của Thế Lữ.
"Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu".
=> Chốt lại vấn đề: Câu nói của Hoài Thanh đã khái quát được một cách đầy đủ và sâu sắc về phong trào thơ Mới, gây nhiều "xôn xao" nhưng cũng thực "buồn".
Mỗi nhà thơ đều là một cơn gió reo vui mang đến những nốt nhạc lạ, muôn nhạc điệu. Nhưng cuộc đời thờ ơ quá, dửng dưng quá => nỗi buồn tha thiết "nhưng động tiên đã hết, tình yêu không bền, say đắm rồi cũng bơ vơ...".
* Kết thúc vấn đề:
(Trích dẫn lại câu của Hoài Thanh) => Câu nói giúp ta hiểu thêm về phong trào thơ Mới một cách đầy đủ, và sâu sắc. Câu nói đúng đắn của một nhà phê bình làm ta khắc ghi sâu hơn cái "điệu" của một thời kì của thơ ca Việt Nam.
Đề số 3: Trong tác phẩm “Tuỳ viên thi thoại” nhà phê bình Viên Mai (Trung Quốc) viết: “Là người thì không nên có cái tôi... Nhưng làm thơ thì không thể không có cái tôi”. Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy bình luận và làm sáng tỏ cái tôi của một số nhà thơ trong phong trào thơ mới lãng mạn Việt Nam (1932 - 1945).
Ai đã từng một lần đọc kiệt tác “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du, hẳn vẫn còn nhớ mãi bước chân “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” của Thuý Kiều tìm đến với Kim Trọng – bước chân mà nói như Xuân Diệu, sẽ còn làm biết bao thiếu nữ hôm nay và mai sau phải ngỡ ngàng, ngạc nhiên.
Trong xã hội phong kiến “phi ngã”, “vô ngã” những “bước chân Thuý Kiều” như thế thật hiếm hoi biết bao. Trong cuộc đời đã vậy, chẳng lẽ điều đó cũng hi hữu trong thơ ca, trong văn chương nghệ thuật? ý kiến sau đây của nhà phê bình nổi tiếng Trung Quốc Viên Mai, là lời giải đáp cho câu hỏi đó: “Làm người thì không nên có cái tôi... nhưng làm thơ thì không thể không có cái tôi”. .
Xuất phát từ sự trải nghiệm sâu sắc với cuộc đời, từ thực tế phê bình thơ ca cổ điển Trung Quốc, Viên Mai đã đề xuất một quan niệm khá mới mẻ về “làm người” và “làm thơ”. Sống trong xã hội phong kiến, thời đại mà tư tưởng “vô ngã”, “phi ngã” như một thế lực vô hình chi phối mọi hành động của con người, Viên Mai cũng quan niệm: “làm người không nên có cái tôi”. “Cái tôi” ở đây có thể hiểu là tiếng nói là ý thức cá nhân cũng như cá tính riêng của mỗi người. “Cái tôi” trong cách nghĩa xưa như là hiện thân của một tư tưởng cá nhân ích kỉ, hẹp hòi, nhỏ bé, tầm thường. Cho nên “làm người không nên có cái tôi” là vì vậy. Nhưng câu nói của Viên Mai không nhấn mạnh tới vấn đề này. Điều ông quan tâm là việc “làm thơ” nghĩa là sáng tác văn chương nghệ thuật. Nhà phê bình đã đối lập “làm người” và “làm thơ” khi đặt ra yêu cầu bức thiết, sinh tử đối với thơ ca “không thể không có cái tôi”. “Cái tôi” trong thơ ca được hiểu như là cái tôi xúc cảm, là cá tính sáng tạo của nhà thơ. Như thế Viên Mai đã đặt ra yêu cầu quan trọng đối với nhà thơ đó là phải in dấu “cái tôi” - xúc cảm, cá tính sáng tạo của mình vào trang thơ. Thơ ca, với ông, là sự thể hiện “cái tôi” của nhà thơ sâu sắc nhất. Vậy thì tại sao “làm thơ không thể không có cái tôi”? Theo tôi, điều đó bắt nguồn từ chính đặc trưng của thơ ca. Thơ ca là hoạt động sáng tạo tinh thần của con người. Thơ là sự tự thể hiện mình một cách trực tiếp và chân thực nhất. Nói như Diệp Tiếp, thơ “là tiếng lòng” của nhà thơ vậy. Khi có những xúc cảm trào dâng mãnh liệt “không nói ra không được”, thậm chí có “thể chết” như cách nói của Rinkle, nhà thơ lại tìm đến thơ để giãi bày, sẻ chia. Bởi lẽ có những điều “chỉ có thể nói được bằng thơ”. Chính vì thơ là sự thể hiện nên thơ in đậm dấu ấn cái tôi cá nhân của nhà thơ. Xúc cảm trong thơ không phải của ai khác mà chính là những băn khoăn, trăn trở, những tình cảm, suy nghĩ của chính nhà thơ. Cho nên làm thơ phải có “cái tôi” là vì vậy.
Thế nhưng quy luật, bản chất của lao động nghệ thuật lại là sáng tạo. Làm thơ không phải là một thứ sản xuất hàng loạt, làm theo “một vài kiểu mẫu” đưa cho. Sáng tác thơ, nói như Xuân Diệu, “là một thứ sản xuất đặc biệt và cá thể, do cá nhân thi sĩ làm”. Nghệ thuật muôn đời vẫn là “lĩnh vực độc đáo”. Vì vậy nó đòi hỏi nhà thơ phải có phong cách nổi bật tức là có cái gì đó rất riêng, rất độc đáo thể hiện trong tác phẩm của mình. Sáng tạo là yêu cầu sinh tử của nhà văn, đồng thời cũng làm nên tư cách của nhà văn chân chính. Khi mà anh không sáng tạo nghĩa là anh đang chết, nghĩa là anh phủ nhận tư cách nghệ sĩ của mình. Phải chăng vì vậy trong bức thư gửi một nhà văn trẻ, M.Gorki đã khuyên nhủ, nhắn gửi chân thành thấm thía rằng: “Các bạn hãy học viết ở tất cả các nhà văn có phong cách điêu luyện nhưng các bạn hãy tìm lấy nốt nhạc và lời ca của chính mình”. Khi một người không có cái gì riêng của mình, tác phẩm của anh ta không thể có một giá trị gì. Chính bởi bản chất của thơ ca là sáng tạo nên nhà thơ phải có “cái tôi” cá thể của mình, tức là phải có cá tính riêng độc đáo thể hiện trong tác phẩm của mình. Thơ ca chỉ thực sự có giá trị, có sức sống khi nó in đậm một cá tính riêng của nhà thơ.
Yêu cầu về “làm thơ” của Viên Mai đã vượt qua sự trói buộc ràng buộc nghiệt ngã của hệ tư tưởng phong kiến, trở thành một quan điểm ý nghĩa, xác đáng đối với thơ ca, nói rộng ra là văn chương nghệ thuật. Ý kiến ấy đã được thể hiện sâu sắc trong thực tế sáng tác thơ ca của các nhà thơ Trung Quốc cũng như đối với thơ ca Việt Nam, đặc biệt là với phong trào thơ mới lãng mạn Việt Nam thời kì 1932 - 1945. Đây được coi là thời đại của cái tôi - một thời đại chưa từng có trong lịch sử thơ Việt Nam. Thơ mới lãng mạn được coi là một dàn hợp xướng của “cái tôi”. Mãi mãi hôm nay và mai sau, người yêu thơ sẽ còn nhớ đến một Xuân Diệu “thiết tha, rạo rực”, một Huy Cận “ảo não”, một Nguyễn Bính “quê mùa”, một Hàn Mặc Tử “kì dị”, một Lưu Trọng Lư “mơ màng”, một Huy Thông “hùng tráng” và một Nguyễn Nhược Pháp “trong sáng” ... Bởi các nhà thơ ấy đã nói lên tiếng nói của cái tôi cá nhân, đã nhìn cuộc đời và con người bằng con mắt của bản thân và diễn đạt cách cảm nhận riêng ấy bằng chính những ngôn ngữ, hình ảnh ... in đậm dấu ấn cá nhân nên tiếng thơ của họ còn mãi với cuộc đời, sống mãi trong lòng người.
Trong dàn hợp xướng của phong trào thơ mới lãng mạn Việt Nam, Xuân Diệu nổi bật lên như một ngôi sao rực rỡ, chói loà, với những vần thơ nồng nàn, say đắm, mãnh liệt. Thơ Xuân Diệu là bầu xuân. “Thơ ông là bình chứa muôn hương của tuổi trẻ” (Vũ Ngọc Phan). Trong thơ ông người đọc bắt gặp dòng cảm xúc sôi nổi mãnh liệt, cái mà Nguyễn Đăng Mạnh gọi là “niềm khát khao giao cảm với đời” riêng có ở Xuân Diệu. Cái tôi nội cảm của nhà thơ, xét đến cùng chính là lòng yêu đời, ham sống mãnh liệt đó. Có lẽ chỉ riêng Xuân Diệu mới có ham muốn phi thường, kì vĩ:
“Tôi muôn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muôn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”.
Hiện diện giữa các dòng thơ là “cái tôi” của Xuân Diệu, không hề che giấu mà dõng dạc vang lên như thách thức, như tuyên bố với cuộc đời. Nhà thơ có ham muốn “tắt nắng”, “buộc gió” để giữ lại màu sắc, hương thơm của thiên nhiên, của tạo vật. Một khát vọng, ước muốn kỳ vĩ, độc đáo có lẽ chỉ thấy ở nhà thi sĩ họ Ngô này. Khát vọng ấy xuất phát từ tình yêu mãnh liệt với cuộc đời, ước muốn được làm chủ, được chế ngự thiên nhiên, được sống tận độ trong sắc màu và hương thơm của cuộc sống, của tuổi trẻ. Chính ham muốn ngông cuồng ấy đã làm nên sắc điệu riêng cho tiếng nói của cái tôi cá nhân của Xuân Diệu.
Có ai đó đã phong Xuân Diệu là “hoàng tử của thơ tình Việt Nam hiện đại”, là “người ca sĩ hát rong về tình yêu của nhân dân trong thời hiện đại”. Lòng ham sống, yêu cuộc sống mãnh liệt đã chắp cánh cho hồn thơ Xuân Diệu đến với tình yêu như một sự vượt thoát khỏi khuôn khổ chật hẹp của lễ giáo phong kiến. Xuân Diệu đã thể hiện một thứ tình yêu mạnh bạo mới mẻ của cuộc đời thực chứ không phải thứ tình yêu đạo đức trong sách vở hay thứ tình yêu ảo mộng của Tản Đà, Thế Lữ. Trước và sau Xuân Diệu không ai có được những vần thơ tình yêu sôi nổi, mãnh liệt như thế này:
“Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh
Anh nhớ em. Anh nhớ lắm. Em ơi !?”
Vẻ đẹp tình yêu trong thơ tình Xuân Diệu thể hiện niềm khát khao giao cảm mãnh liệt từ thể xác tới tâm hồn con người. Cái mà Xuân Diệu sợ nhất trong tình yêu không phải là sự xa cách không gian – thời gian mà là sự xa cách của tấc lòng, là tình cảm mỗi người, là một vũ trụ riêng chứa đầy bí mật không hài hoà, trộn lẫn làm một. Quan niệm tình yêu độc đáo riêng có ấy đã làm nên những vần thơ tình đẹp nhất, mãnh liệt nhất trong thơ ca Việt Nam hiện đại.
Xuân Diệu hiện diện trong thơ không chỉ với cái tôi xúc cảm dào dạt đắm say mà còn với một cá tính sáng tạo độc đáo. Cá tính ấy thể hiện trong cái nhìn tươi mới trong trẻo, độc đáo về thế giới về con người được gửi gắm trong những vần thơ hiện đại, tinh vi, tài hoa. Thoát ra khỏi cái nhìn ước lệ chung chung chật hẹp của quan niệm phong kiến, Xuân Diệu đã say sưa, choáng váng trước vẻ đẹp đích thực của cuộc đời:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”
Thế giới được cảm nhận qua đôi mắt “non xanh biếc rờn” của Xuân Diệu thật đẹp, thật sống động, tràn đầy màu sắc, âm thanh, ánh sáng, hương vị, tràn trề nhựa sông, đầy ắp sự sống. Mỗi chữ “này đây” vang lên như một đợt sóng cảm xúc dâng trào. Được trả cho mình đôi mắt nhìn đời của chính mình, Xuân Diệu đã say sưa ca lên khúc nhạc vui về cuộc sống về thiên nhiên về con người. Chính bởi cặp mắt ấy, Xuân Diệu đã phát hiện ra vẻ đẹp đích thực của thế giới, giúp người đọc thấm thía rằng: Thiên đường không phải ở đâu xa không phải ở một cõi mộng xa khuất nào mà ở ngay xung quanh chúng ta, ở ngay trong cuộc đời thực. Thiên đường ở chính mảnh đất của sự sống, của hương hoa này. Phải có con mắt “xanh non biếc rờn” của tuổi trẻ, của sức trẻ mới có thể nhận ra được. Sự phát hiện độc đáo ấy còn gắn với một quan niệm thẩm mỹ rất riêng, rất Xuân Diệu:
“Tháng Giêng ngon như cặp môi gần”
Thơ xưa thường lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người. Người phụ nữ đẹp trong quan niệm xưa phải có khuôn mặt đẹp như hoa, như trăng rằm, có tiếng nói trong như tiếng oanh vàng, có lông mày đẹp như lá liễu. Còn với Xuân Diệu, chính con người mới là tạo vật toàn mĩ nhất, vẻ đẹp con người mới là chuẩn mực của thiên nhiên: “Lá liễu dài như một nét mi”.
Chính cách nhìn ấy đã khiến cho sự vật hiện lên trong thơ Xuân Diệu, dẫu chỉ là những hoa lá, cỏ cây ... bình dị của cuộc sông thường ngày ánh lên vẻ đẹp thẩm mỹ đích thực của nó. Thơ Xuân Diệu không mới ở đề tài nhưng vẫn có sức hấp dẫn người đọc là vì vậy. Không những thế ông còn là nhà phù thuỷ tài ba hoá phép cho sự cảm nhận ấy biến ảo lung linh dưới ngôn ngữ, dưới hình thức nghệ thuật tài hoa, giàu giá trị thẩm mỹ. Người ta nói đến Xuân Diệu như người làm chủ xứng đáng của bút pháp tượng trưng tinh tế. Thi sĩ đã nắm bắt được cái xôn xao mơ hồ trong lòng tạo vật qua hình ảnh “Con cò trên ruộng cánh phân vân”. Thi sĩ cũng thấy được quá trình chuyển mùa tinh tế của đất trời ở phạm vi nhỏ bé nhất, tế vi nhất bằng từ “rũa” trong câu thơ độc đáo:
“Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh”
Nó khác hẳn với quá trình biến đổi của sắc là trong thơ Nguyễn Du:
“Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san” hay trong thơ Nguyễn Bính: “Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”. Từ “rũa” miêu tả một sự biến đổi ở cấp độ vi mô hơn từ “nhuốm” hay “nhuộm”, hơn thế đó là quá trình hãy còn đang diễn ra chứ chưa phải đã hoàn tất. Xuân Diệu như nhìn thấy trên từng tế bào diệp lục của lá một sự giao tranh âm thầm mà quyết liệt: màu đỏ cứ lấn dần màu xanh từng tí một để rồi đến một lúc nào đó ta ngỡ ngàng nhận ra, cả trời thu đã nhuộm đỏ sắc lá. Theo sau đó là sự lùi dần của mùa hạ, thay thế chiếm ngự không gian là mùa thu. Với bút pháp tương giao tinh tế, với ngôn ngữ thơ độc đáo in đậm dấu ấn cá tính sáng tạo riêng của Xuân Diệu, câu thơ đã trở thành một trong những sáng tạo nghệ thuật độc đáo về mùa thu của nhà thơ.
Như thế thơ Xuân Diệu đã in đậm dấu ấn tâm hồn, tài năng, phong cách nghệ thuật độc đáo của riêng Xuân Diệu. Nó không hề lẫn với bất kì một tiếng thơ nào khác chính bởi sắc thái riêng của cái tôi độc đáo của Xuân Diệu.
Nếu như thơ Xuân Diệu khoác bộ y phục tối tân lộng lẫy thì thơ của Nguyễn Bính mang trên mình những “áo tứ thân”, “quần nái đen”, “khăn mỏ quạ” rất riêng của con người Việt Nam, của đồng đất thảo mộc nông thôn đất Việt. Nguyễn Bính là nhà thơ “Chân quê”, là hồn thơ “quê mùa” là vậy. Trong thơ ông ta thấy hiện lên khung cảnh làng quê rất riêng, rất Việt Nam với những giếng nước, mái đình, gốc đa, dậu mồng tơi ... cảnh sắc làng quê Việt Nam đã mượn tiếng thơ Nguyễn Bính để lên tiếng.
“Giếng thơi mưa ngập nước tràn
Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều”
Nguyễn Bính yêu mến cảnh quê như chính người nông dân yêu mến xóm làng của mình vậy. Thế nhưng ngay cả trong những câu thơ tưởng như rất gần gũi với ca dao dân ca này, vẫn hiện lên cách nhìn, cách cảm của riêng Nguyễn Bính của một hồn thơ mới. Nguyễn Bính đã chất đầy “nắng chiều” một thứ vô hình, huyền ảo trong “ba gian” nhà - một thứ hữu hình, chân thực. Thơ Nguyễn Bính nói cái “không” mà lại tràn ngập cái có, một ngôi nhà vắng mà lại trở nên sống động, tràn ngập “nắng chiều”. Đó chính là cái nhìn mới mẻ độc đáo về cảnh sắc làng quê Việt Nam có lẽ chỉ có ở Nguyễn Bính mà thôi.
Cùng viết về làng quê Việt Nam, nhưng nếu Anh Thơ rất thành công trong việc khắc hoạ cảnh quê, Đoàn Văn Cừ tài năng trong việc khắc hoạ những phong tục làng quê thì Nguyễn Bính lại sở trường khắc hoạ những mối tình quê, thực chất đều là những mối tình âm thầm, lặng câm, dang dở, bẽ bàng. Tâm lý của cái tôi Nguyễn Bính trong tình yêu là tâm lý của một chàng trai “quê mùa”.
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.”
Cũng viết về tâm trạng “tương tư” của người đang yêu song vần thơ Nguyễn Bính khác hẳn với những vần thơ của Xuân Diệu trong “Tương tư chiều”. Một bên là thứ tình yêu mãnh liệt, một nỗi nhớ bật trào ra khỏi cái xác chữ để phập phồng trên trang giấy còn một bên lại là mối tình lặng, dẫu không kém phần da diết. “Cái tôi” của Nguyễn Bính phải mượn đến những “thôn Đoài”, “thôn Đông”, những “một người” và cả mưa nắng của trời đất thiên nhiên để thể hiện mình, để khắc hoạ nỗi nhớ da diết trong sâu thẳm tâm hồn mình. Ấy chính là cái chất tâm hồn riêng của Nguyễn Bính trong thơ.
Xuân Diệu đắm mình trong tình yêu. Nguyễn Bính để hồn mình nương náu bến nước, gốc đa, mái đình... còn Huy Cận thi sĩ tìm về với những điệu hồn cổ điển. Thơ Huy Cận là tiếng lòng ảo não của nhà thơ cùng đất nước mà nặng buồn sông núi. Trong thơ Huy Cận, có nỗi buồn “thiên cổ sầu” “sầu vũ trụ”, ... nhưng bao trùm hơn cả vẫn là nỗi sầu nhân thế:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Hoài Thanh gọi Huy Cận là hồn thơ “ảo não” nhất trong các nhà thơ mới phải chăng bởi những vần thơ như vậy. Một nỗi buồn trùng điệp, miên man khắp thời gian, giăng mắc khắp không gian. Như trăm dòng suối đổ ra sông, hàng hàng lớp lớp nỗi buồn từ khắp mọi ngả cuộc đời hợp về thành nỗi sầu lớn “sầu trăm ngả”. Đó là nỗi buồn của cá nhân khi đối diện vói không gian trời bể sông nước mênh mông, khi cảm nhận được kiếp người nhỏ bé trôi dạt như cành củi khô dập dềnh trên sóng nước. Người xưa dùng hình ảnh cánh bèo để nói lên thân phận chìm nổi của con người. Huy Cận lại dùng hình ảnh cành củi khô - một chất liệu vừa hiện thực, vừa hiện đại. Trong giây phút sầu tủi, ngậm ngùi về cuộc đời, về kiếp người, hồn thơ Huy Cận nương náu về một điểm tựa tinh thần, ấy là nỗi nhớ, tình yêu quê nhà:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Huy Cận mang trong mình cảm hứng thơ đậm chất cổ điển chính bởi hình ảnh, ngôn ngữ thơ rất cổ điển, rất Đường thi. Song cái tôi của Huy Cận là cái tôi của một nhà thơ mới được giải phóng khỏi quy luật ước lệ chung chung trong thơ xưa. Người xưa thấy khói sóng trên sông mà động lòng nhớ quê, rộn lên tình cảm với quê nhà. Huy Cận không cần khói sóng gợi hứng bởi hồn thơ ông chất chứa tình cảm nhớ thương quê nhà tự rất lâu rồi. Thế là tâm cảnh chi phối ngoại cảnh. Thế là hồn thơ ảo não, da diết đã chi phối đến cách miêu tả, cảm nhận về thế giới rất riêng của Huy Cận. Chính nhờ cái tôi độc đáo ấy, Huy Cận đem đến cho thơ mới những vần thơ rất cổ điển những vẫn rất hiện đại.
Còn biết bao tiếng thơ độc đáo, đặc sắc khác hiện hữu trong phong trào thơ mới lãng mạn Việt Nam. Những hồn thơ ấy đã góp phần làm nên một thời đại rực rỡ chưa từng có trong thơ ca Việt Nam, in dấu những tên tuổi, những phong cách thơ độc đáo bậc nhất trên thi đàn văn học dân tộc.
Ý kiến của Viên Mai không phải không có chỗ cần bàn cãi tranh luận song theo tôi, đó là một nhận định, một quan điểm khá xác đáng, đáng trân trọng. Viên Mai vượt qua hạn chế của thời đại, dám lên tiếng đề cao cái tôi xúc cảm, cá tính sáng tạo nhất thiết cần có ở mỗi nhà thơ, ý kiến ấy đã mở ra một con đường sáng tác thơ ca chân chính ấy là hành trình tự thể hiện, là hành trình sáng tạo không ngừng để tạo nên những vần thơ độc đáo, in đậm dấu ân cái tôi cá nhân của mỗi nhà thơ. Đọc ý kiến, tôi chợt hiểu vì sao có những nhà thơ sẽ mãi mãi còn lại trong lòng người đọc, lại có những nhà thơ mà lịch sử, mà công chúng sẽ lãng quên. Khi một nhà thơ không có cái gì riêng trong tác phẩm của mình, sáng tác của anh sẽ không thể có giá trị và không thể tồn tại. ý kiến của Viên Mai được thể hiện trong những thời kì, giai đoạn văn học mà cái tôi cá nhân của người cầm bút bị xoá nhoà. Những thời đại ấy không thể có được giá trị vĩnh hằng với thời gian. Yêu cầu của Viên Mai sẽ còn mãi chân giá trị với thời gian.
Đề số 4: Có ý kiến cho rằng: “Với Thơ Mới, thi ca Việt Nam bước vào một thời đại mới”. Anh/ chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm rõ điều làm nên dấu ấn của “thời đại mới” qua một số bài thơ mới đã học trong chương trình.
Mở bài
Có người vẫn thường nói: “Xã hội nào thì văn học đó”, thời đại xã hội luôn là yếu tố ảnh hưởng sâu sắc đến văn học, những đặc điểm của thời đại đó sẽ là những chủ đề, nội dung để các nhà văn, nhà thơ đề cập đến trong tác phẩm của mình. Trong suốt cả một chặng đường dài của nền văn học nước nhà, đã có những đổi thay, những sự cách tân làm nên những dấu ấn văn học. Nhưng có lẽ, một thời đại văn học tạo nên Văn học Việt Nam đó là thời kì của phong trào thơ mới từ đầu thế kỉ XX đến 1945, đúng như ý kiến: “Với thơ Mới, thi ca Việt Nam bước vào một thời đại mới”.
Thân bài
Giải thích ý kiến :Với Thơ Mới, thi ca Việt Nam bước vào một thời đại mới
Cuối thế kỉ XIX, thực dân Pháp lăm le xâm lược nước ta, chúng biến lãnh thổ nước ta thành thuộc địa của chúng. Những năm đầu thế kỉ XX, xã hội Việt Nam đã được một làn gió văn hóa mới tràn vào. Một dân tộc có một nền văn hóa ổn định suốt mấy nghìn năm đã bị xáo trộn bởi lối sống của con người phương Tây. Ở những nơi thành thị, con người bắt đầu mặc những bộ quần áo Tây, đội mũ Tây, đi xe Tây, ở nhà theo phong cách Tây, kể cả lời ăn tiếng nói, hành vi cư xử cũng theo phong cách Tây. Họ chạy theo lối sống mới, bắt đầu có những suy nghĩ khác mà đa phần là sự băng hoại đạo đức và nhân phẩm với lối sống của xã hội lai căng. Ở những vùng nông thôn nghèo, người dân lao động phải chịu những áp lực, bóc lột trực tiếp và gián tiếp đến từ giai cấp thống trị nửa thực dân nửa phong kiến. Trước cảnh một xã hội hỗn loạn như vậy, các nhà văn đã sáng tác về những hiện thực cuộc sống bấy giờ. Còn các thi nhân, ai cũng mang trong mình những tâm sự, những nỗi buồn, họ muốn thoát khỏi thực tại nghiệt ngã, muốn quên đi những nỗi đau trong cảnh đất nước bị xâm lăng vì vậy những nhà thơ trong giai đoạn này hộ đã viết về những cảm xúc riêng tư của mình bằng bút pháp lãng mạn bay bổng nhất.
Làn gió văn hóa Tây học đã mang đến nhiều sự đổi mới cho nền văn học Việt Nam. Hoài Thanh trong “Thi nhân Việt Nam” đã viết: “Tình chúng ta đã đổi mới thơ chúng ta cũng vậy”. Chưa bao giờ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi (năm, sáu mươi năm) mà nền thơ ca Việt Nam lại xuất hiện nhiều gương mặt tiêu biểu và xuất sắc như thế. Họ đã cùng nhau tạo nên “phong trào Thơ Mới” khác với “thơ cũ” với những bài thơ viết theo thể loại đọc đáo, những cảm xúc suy tư, thầm kín khác nhau, nội dung, tư tưởng khác xa so với thơ cũ và lối quy phạm, ước lệ “Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lúc mọt hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên…, và thiết tha, rạo rực băn khoăn như Xuân Diệu”. Phong trào Thơ Mới đã trở thành một dấu ấn, một bước ngoặt trong lịch sử thơ ca dân tộc, với nhiều tài năng nổi trội, nhiều tác phẩm đắt giá. Nói rằng “Với Thơ Mới, thi ca Việt Nam bước vào thời đại mới” quả không sai bởi khi phong trào thơ mới nổi lên, các thi nhân mới có dịp giải bày lòng mình thể hiện tài năng, phong cách cá nhân theo một xu hướng mới mà trước đó các nhà thơ Trung đại không có được.
Phân tích chứng minh ý kiến :Với Thơ Mới, thi ca Việt Nam bước vào một thời đại mới
“Thi ca Việt Nam bước vào thời đại mới”, một thời đại với sự thay đổi sâu sắc về nội dung về tư tưởng trong mỗi thi phẩm nếu trong thơ xưa, thi nhân chỉ sáng tác về quê hương đất nước, về hoàn cảnh lịch sử với vua, với tướng, tác phẩm nào cũng phải thể hiện rõ ràng đạo nghĩ vua tôi, yêu nước, thờ vua hoặc theo lối tư tưởng cũ tức thơ tả cảnh, nếu viết về người phải là ngư, tiều, canh, mục; viết về con phải là long, ly, quy, phụng; nam nhi phải mạnh mẽ, đầu đội trời, chân đạp đất, hùng dũng, dẻo dai; còn nữ nhi thì phải công, dung, ngôn, hạnh, thủy chung son sắt. Tất cả như đặt người thi nhân vào một khuôn khổ. Ngoài ra, thơ cũ còn theo một niêm luật của tính phi ngã, miêu tả trong thơ là miêu tả ước lệ lấy thiên nhiên là chuẩn mực cho vẻ đẹp. Nhưng đối với Thơ Mới, những tư tưởng đó đã dược phá bỏ thi nhân viết về nỗi niềm con người trước dòng chảy của thời gian và diễn biến của xã hội. Họ dành ngôn từ bay bổng để viết cho những tâm sự khó giãi bày của bản thân mình trước hoàn cảnh trái ngang của cuộc đời:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai tình ai có đậm đà?”
(“Đây thôn Vĩ Dạ” – Hàn Mặc Tử)
Không phải là nỗi lòng bị gò bó theo lối “Tả cảnh ngụ tình”, nhà thơ Hàn Mạc Tử đã trực tiếp thể hiện sự băn khoăn tuyệt vọng của mình bằng một câu hỏi kết thúc bài thơ “Đây Thôn Vĩ Dạ”. Đó là những trạng thái mơ hồ, hoài nghi của một con người sắp giã từ cuộc đời khi trong lòng còn nhiều vấn vương với cuộc sống. Một sự mơ ảo “Áo em trắng quá nhìn không ra”, thi nhân khiến người đọc phải băn khoăn, suy nghĩ về hình ảnh được đề cập đến trong bài thơ. Nhờ đó mà bài thơ tạo được ấn tượng trong lòng độc giả.
Thơ Mới đã phá bỏ mọi tính quy phạm, ước lệ trong thơ cũ. Đại thi hào Nguyễn Du đã miêu tả vẻ đẹp con người rằng:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
(“Truyện Kiều” – Nguyễn Du)
Vẻ đẹp của con người được đo bằng vẻ đẹp chuẩn mực thiên nhiên. Nhưng với Xuân Diệu, thiên nhiên không còn là chuẩn mực nữa, con người mới là chuẩn mực của cái đẹp. Trong bài thơ “Vội Vàng”, ông viết:
“ Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Người đọc cảm nhận được sự tràn đầy sức sống và ngọt ngào của mùa xuân, nồng nàn, ấm áp nhưng đôi môi gần gũi nhau cảu cặp tình nhân.
Với thơ xưa mùa thu đến qua mặt nước trong, với nền trời cao trong xanh:
“Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non khơi bóng vàng”
(“Truyện Kiều” – Nguyễn Du)
Nhưng với phong cách “rất Tây” của mình, Xuân Diệu miêu tả mùa thu không phải mặt nước, nền trời, mà đó là:
“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ giữa màu xanh”
(“Đây mùa thu tới” – Xuân Diệu)
“Hơn một” tức là nhiều loài hoa, nhà không chỉ rõ loài hoa nào, chỉ biết là rất nhiều hoa. Cũng không phải một màu sắc nhất định như thơ cổ mà là một màu được pha giữa hai màu đỏ và xanh. Ngoài ra với cách sử dụng từ “giữa” ta thấy được tài năng sử dụng từ của Xuân Diệu, “sắc đỏ giữa màu xanh” ý muốn nói màu đỏ đang lấn át dần, mùa thu đã đến mang theo sự tàn úa cho cảnh vật. Ấy mới thấy được tài năng và những thay đổi trong tư tưởng và nội dung của các thi nhân trong phong trào thơ mới.
Gọi là “Thơ Mới” nên không những có sự thay đổi ở nội dung mà còn thay đổi cả về hình thức nghệ thuật. Nếu như thơ xưa bị gò bó trong một lối thơ Đường luật với niêm luật khắt khe thì lúc bấy giờ, các thi nhân Việt Nam đã sáng tạo ra những thể thơ độc đáo như ngũ ngôn, thơ bảy chữ, tám chữ, thơ tự do,…hoặc có những lối thơ viết đầy sáng tạo:
“Lá bàng
Như lá vàng
Rụng.
Ô! Đìu hiu
Cảnh chiều
Đông!”
(“Mùa Đông” – Nam Trân)
Thể thơ độc đáo ấy xuất phát từ cảm xúc chênh vênh, hụt hẫng, trơ trọi, trống vắng của tác giả nên những dòng thơ có vẻ rất hẫng. Dòng cảm xúc của thi nhân được thể hiện một phần qua thể thơ, câu thơ càng dài, càng nhiều tức cảm xúc của thi nhân rất dạt dào. Như trong tác phẩm “Vội Vàng”, Xuân Diệu đã thể hiện niềm khát khao giao cảm với cuộc đời của mình qua những câu thơ dài:
“Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”
(“Vội vàng” – Xuân Diệu)
Nhịp thơ dồn dập – những ngôn từ nối tiếp nhau tạo nên cảm giác vội vàng, gấp gáp. Đó cũng chính là trạng thái của thi nhân khi nhận ra sự hữu hạn của một kiếp người trong vũ trụ bao la. Vì thế mà thi nhân muốn “riết” mây và gió, muốn “say” cánh bướm với tình yêu, muốn “thâu” trong một cái hôn nhiều… Các từ “say”, “riết”, “thâu” đều là những động từ mạnh, thể hiện sự thèm khát sự sống đến cháy bỏng, cuồng nhiệt. Ở đây ta còn thấy được nghệ thuật sử dụng từ ngữ và hình ảnh của Xuân Diệu. Đó là những từ ngữ chỉ hành động bạo dạn và những hình ảnh thể hiện sự tươi mới, đẹp đẽ, rực rỡ nhất của cuộc sống. Thi sĩ như một con ong say sưa thưởng thức mật ngọt và hương thơm của hoa trái cho đến lúc “ chếnh choáng”, “no nê”, “đã đầy”. Điệp từ “muốn” được nhắc đi nhắc lại ba lần giúp người đọc cảm nhận được niềm mong muốn mãnh liệt của thi nhân với cuộc sống tươi đẹp.
Nếu thơ văn trung đại thường sử dụng bút pháp ước lệ, tượng trưng, thường viết về những hình ảnh tùng, cúc, trúc, mai hay trăng, hoa, tuyết, nguyệt thì trong thơ mới các thi nhân đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật mới với những hình ảnh khác lạ. Ta thường nhớ đến những vần thơ trong bài “Hai lòng” của Nguyễn Bính:
“Lòng em như quán bán hàng
Dừng chân chân khách qua đàng mà thôi
Lòng anh như mảng bè trôi
Chỉ về một bến, chỉ xuôi một chiều”
Lòng người con gái như “quán bán hàng”, là nơi nhiều người qua lại, chỉ ghé chốc lát rồi đi. Chẳng có ai là mãi mãi, là duy nhất. Còn lòng của người con trai lại được ví như “mảng bè trôi”, “Chỉ về một bến, chỉ xuôi một chiều”, trước sau như một, luôn thủy chung với tình yêu của mình. Với cách so sánh nhiều hình ảnh đó, người con trai như muốn trách móc người con gái không thủy chung, sống “hai lòng”.
Phong trào thơ mới xuất hiện khi xã hội Việt Nam đang nửa Tây, nửa ta, nhố nhăng, lộn xộn. Vì vậy, mỗi nhà thơ sẽ có một cách nhìn, cách cảm nhận riêng về cuộc sống và con người. Chính vì lẽ đó mà Cái Tôi với ý nghĩa đích thực đã xuất hiện. Người đọc không thể nào quên cái tôi cuồng nhiệt, đắm say, khát khao sự giao hòa, giao cảm với cuộc đời của Xuân Diệu. Thơ Xuân Diệu luôn mang đến cho người đọc một ngọn lửa sống mạnh mẽ, mãnh liệt:
“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”
Khác với sự vội vã, cuồng nhiệt của Xuân Diệu, Huy Cận lại mang trong mình cái tôi u sầu “sầu vạn cổ”, “buồn thiên thu”, vần thơ nào của ông cũng u sầu:
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Đoạn thơ không hề có một chữ buồn nhưng người đọc vẫn cảm nhận được có một nỗi buồn rất sâu, rất ghê gớm. Nỗi buồn đó bủa vây thi sĩ khiến cho Huy Cận nhìn đâu cũng thấy cảnh chia lìa, tan tác. Đọc thơ Huy Cận ta luôn có cảm giác “buồn lây”, chính điều đó đã tạo nên sự thành công cho các tác phẩm của Huy Cận nhờ cái tôi độc đáo của mình.
Bình luận mở rộng vấn đề
Ta không thể thừa nhận rằng, “Với Thơ Mới, thi ca Việt Nam bước vào một thời đại mới”.Thời đại đó không những mới mà còn hoàn toàn khác so với thời đại thơ cũ do ảnh hưởng của thời đại, của hoàn cảnh xã hội và văn hóa mới du nhập từ phương Tây. Mặc dù thời đại xã hội đó đã lùi xa nhưng nó đã mang đến cho văn học Việt Nam một diện mạo mới với nhiều gương mặt mới và những tác phẩm có giá trị. Thơ mới đã thành công nhờ vào sự đổi mới về tư tưởng, nội dung sáng tác, hình thức nghệ thuật và cái tôi ở mỗi nhà thơ.
Kết bài
Dù phát triển từ thơ ca trung đại nhưng thơ mới đã tạo nên một dấu ấn quan trọng trong lịch sử thơ ca dân tộc. Ngày nay, chúng ta vẫn đọc say sưa và yêu quý những tác phẩm của phong trào thơ mới. Đó chính là sự thành công lớn nhất đối với một thời đại thi ca.
Đề số 5: Nhận xét về Thơ Mới, Hoài Thanh viết: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ Tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy cận. Cả trời thực, trời mộng vẫn neo neo theo hồn ta.” (trích “Một thời đại trong thi ca”)
Phân tích và bình luận ý kiến trên. Minh hoạ bằng những bài thơ đã học và đã đọc thêm.
Mở bài:
Cho đến nay, sự phát triển và những thành tựu rực rỡ của phong trào Thơ mới vẫn còn làm say mê biết bao ngòi bút chưa thôi mong muốn được hiểu hết và tìm thấy nguồn sức mạnh đích thực làm nên “cuộc cách tân vĩ đại” trong thơ này. Và mỗi khi nhắc đến nền thơ rực rỡ ấy, ta không thể không nhắc đến Hoài Thanh và tuyển tập Thi nhân Việt Nam. Với khí thế của người đương đại, Hoài Thanh đã chuyển hết những tinh hoa vào một tập phê bình đầy giá trị, được xem là một “công trình của thế kỉ”.
Nhận xét về sức sống của gia đoạn này, trong “Một thời đại trong thi ca” ( trích Thi nhân Việt Nam), Hoài Thanh có viết: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ Tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy cận. Cả trời thực, trời mộng vẫn neo neo theo hồn ta.”
o Thân bài:
Trong các nhà phê bình, có lẽ Hoài Thanh là người bám sâu sát nhất phong trào Thơ mới từ lúc nó mới manh nha những dấu hiệu đầu tiên cho đến khi nó kết thúc. Bởi thế, ông nhìn rõ từng khía cạnh của nó, soi chiếu nó từng tí một để phát hiện những tinh anh mà người ta chưa hẳn đã nhìn thấy. Với tập phê bình Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã dũng cảm đứng ra, đại diện cho nền thơ và công chúng lên tiến nhận xét, đánh giá, bình phẩm. Ông không dám nhận là mình đã thấy hết, đã nghĩ hết và đã nói hết. Nhưng quả thật quyển sách đã phô bày trước mắt người đọc một bữa tiệc thi ca thịnh soạn chưa từng có.
Trước hết, Hoài thanh khẳng định: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ Tôi”. Bây giờ ta nghĩ về điều đó không có gì xa lạ gì. Nhưng ở thời đại ấy là quá lạ. Bởi đầu thế kỉ 20, nền Nho học Khổng giáo vẫn còn thống trị trong tư tưởng. Dù các trào lưu phương Tây đã ồ ạt tràn đến, xu hướng cách tân trên mặt trận tư tưởng không ngừng tấn công vào thành trì ấy đã làm cho nó lung lay nhưng vẫn chưa thể làm cho nó lụi tàn ngay được. Con người vẫn ôm một chữ “ta” vĩ đại. Và để phá vỡ được nó là cả một kì công của rất nhiều người, trong đó hầu hết là những nhà thơ mới.
Trước hết, Thơ mới thể hiện “cái tôi” cá nhân một cách rõ rệt. “Cái tôi” trong Thơ mới là cái tôi của “bản thể” có cái tinh tươm, tinh tường của nó và cái lớn muốn hòa vào đại dương, muốn đẩy xa không ngừng cả lớp sóng của cả trường giang. Cái “tôi” ấy muốn bức phá khỏi mọi ràng buộc và tự lập nên một thế giới riêng. Có khi đó là thế giới của mơ mộng, đắm say trong thơ của Thế Lữ, Xuân Diệu. Có khi lại là thế giới của sự điêu tàn, rệu rã trong thơ Chế Lan Viên. Có khi là thế giới của bóng trăng ma quái trong thơ Hàn Mặc Tử. Có khi nó là thế giới huyền hoặc như thực như mơ Lưu trọng Lư, Bích Khuê,…
Dù là thế giới nào đi nữa thì lúc nào nó cũng riêng biệt và không bao giờ lập lại. Thuở ban đầu nó sôi nổi đến thế, mạnh mẽ đến thế nên không thể tránh khỏi sự ngây thơ bồng bột.
Có lẽ chỉ có Hoài Thanh mới nhìn thấy điều đó. Bởi thế ông nói: “Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh”. Phải mất đến gần mười năm, đọc hàng vạn bài thơ của hàng trăm tập thơ, và kể cả những bài thơ chép tay của các thi hữu, Hoài Thanh mới cho ra được một tuyển tập ưng ý. Ông đã gạn lọc một cách kĩ lưỡng thi liệu bằng tầm nhìn của một nhà phê bình nghiêm khắc và bằng cả trái tim đầy rung động để có được nhưng tinh hoa hoa đích thực.
Cũng bởi mới hình thành và phát triển chưa được bao lâu nên chưa thể có một nguồn thi liệu lớn, những tác phẩm lớn, những tư tưởng lớn như các nền văn học khác. Bởi thế, so với lịch sử phát triển của các phong trào thi ca trên thế giới thì phong trào Thơ mới của ta được coi là thần kì, chưa từng có bao giờ. “Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu”, là đi vào cái sâu thẳm trong từng bài thơ, trong từng phong cách thơ đã được khẳng định.
Thế nhưng, càng đi sâu ông càng thấy lạnh. Bởi ông bị chìm ngập trong thế giới của hình vạn trạng, của mọi cung bậc ngâm nga mà các nhà thơ mới đã dũng cảm phô bày. Rồi bất ngờ ông sung sướng hòa mình trong đó: “Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu”.
Mỗi nhà thơ đã đem đến cho cuộc đời một thanh sắc riêng, không thể hòa lẫn. Hoài Thanh vui mừng không phải vì thơ hay, thơ dở mà vì lướt trên nền thơ mà ông đã đi qua bao nhiêu thế giới đa hình đa sắc, tuyệt vời như một phép màu nào đó đã dựng lên trước mắt ông dấu ấn thời gian chuyển luân không ngừng nghỉ.
Có lúc, ông lạc vào thế giới thần tiên cùng Thế Lữ, tìm đến “Động thiên thai” và lắng nghe “Tiếng trúc tuyệt vời”, “Tiếng sáo thiên thai”, được gãy trên “”Cây đàn muôn điệu”, rồi trở về với “Giây phút chạnh lòng”bàn bạc nỗi nhớ thương, quyến luyến. Ông từng nói về thế giới thơ của Thế Lữ: “Ở xứ ta từ khi có người nói chuyện tiên, nghĩa là từ khi có thi sĩ, chưa bao giờ ta thấy thế giới tiên có nhiều vẻ đẹp đến thế“. Hãy lắng nghe Thế Lữ tâm tình:
“Tiếng địch thổi đâu đây,
Cớ sao mà réo rắt?
Lơ lửng cao đưa tận lưng trời xanh ngắt,
Mây bay… gió quyến mây bay…
Tiếng vi vút như khuyên van, như dìu dặt
Như hắt hiu cùng hơi gió heo may”
(Tiếng trúc tuyệt vời)
Ngỡ như gần, ngỡ như xa; có mà lại không có, ngỡ như đã nắm bắt được bất ngờ vụt biến đi, thần tình như một cảnh tiên trên mê cung ảo ảnh. Thế Lữ là thế, dường như ông không thích đời thực, chỉ thích mơ mộng, đôi khi tự thét gào một mình trong đó. Ông không lánh đời nhưng cũng không vồ vập lấy nó. Ông dửng dưng trước mọi cám dỗ và tìm lấy phần thanh cao trong thế giới của riêng mình.
Khác với Thế Lữ, Lưu Trọng Lưu lại chọn cách phiêu lưu trong trường tình. “Nếu… thi sĩ là một kẻ ngơ ngơ ngác ngác, chân bước chập chững trên đường đời, thì có lẽ Lư thi sĩ hơn ai hết” (Hoài Thanh).
Tuy là một nhà diễn thuyết xuất sắc trong thời kì đầu nhưng không vì thế mà thơ Lưu Trọng Lư mất đi vẻ mơ mộng. Thơ ông tự nhiên gióng như một hơi thở, là cái gì đó toát lên từ tạo vật chứ không phải là cố công tạo tác, gọt giũa. Thơ Lưu Trọng Lưu mang đậm chất chấm phá theo kiểu thiền, truyền đạt được nguồn sinh cảm để vật tự tỏa sáng. Bài “Tiếng thu” đã gợi được một cách thần tình cái “thiêng” ấy:
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?
Em có nghe hay là không có nghe,ai biết? Ý thơ mơ hồ đẩy nhẹ người đọc vào thế giới huyền diệu, và bắt đầu đi tìm lời giải đáp. Lưu Trọng Lư lúc này giống như một vị đạo sĩ có tài thôi miên, điều khiển người đọc bước đi trong khu rừng huyền bí. Một khu rừng nhỏ nhưng không thể nào thoát ra được. Để đến khi nghe “Tiếng lá khô xào xạc”, nhìn thấy “Con nai vàng ngơ ngác. Đạp lên lá vàng khô” mới hay chưa từng bước đi mà cảnh vật đang cuôn xoay trước mắt giống như một cuốn phim ngắn mê hoặc đến sững sờ.
Quả thật thơ Lưu Trọng Lư tài tình hơn ta nghĩ. Ông như vừa hóa phép lạ ngay giữa ban ngày. Chính cái đối tượng mờ ảo, lãng đãng, cái trạng thái nửa thức nửa ngủ, nửa thực nửa mơ ấy cũng là một đối tượng thú vị mà thi ca cổ kim từng say sưa săn đuổi để nắm bắt, miêu tả.
Chưa hết, Hoài Thanh còn muốn “điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên” trong thế giới ma mị, kinh hồn. Ông tìm thấy trong thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên một sức “điên cuồng” tuyệt đỉnh, lập tức muốn hào nhập cùng khóc than, kêu gào. Người đọc không bao giờ quên cái thế giới ma hời trong Điêu tàn của Chế Lan Viên. Hoài Thanh từng nhận xét Chế Lan Viên “đột ngột xuất hiện giữa làng thơ Việt Nam như một niềm kinh dị” nhưng vô cùng mới mẻ và cuốn hút. Thế giới thơ Hàn Mặc Tử lại là một niềm kinh dị khác. Đó là “một nguồn thơ rạt rào và lạ lùng”, “càng đi xa càng thấy lạnh”.
Cuối cùng, ông dừng lại để “đắm say cùng Xuân Diệu” trong suối nguồn tươi mát, bay bổng của tình yêu bất tận. Có thể nói Xuân Diệu tôn thờ tình yêu như một thứ tôn giáo và nàng thơ chính là vị giáo chủ. Thơ Xuân Diệu thể hiện một triết lý bi quan, tuyệt vọng về tình ái nhưng lại có một mạch ngầm thúc giục, nhiều khi hừng hực sức sống. Ở đó, Hoài Thanh đã tinh tế nhận thấy “cái dáng dấp yêu kiều, cái cốt cách phong nhã của điệu thơ, một cái gì rất Việt Nam, đã quyến rũ ta”.
Kết bài:
“Đời chúng ta nằm trong một chữ tôi. Mất bề rộng,ta đi tìm bề sâu…”. Hoài Thanh đã khái quát khá toàn diện đặc điểm thơ ca và xu hướng sáng tác của các nhà thơ giai đoạn chuyển thời đầu thế kỉ 20. Chưa bao giờ, trong nền thi ca Việt Nam lại ồ ạt xuất hiện những tác giả lớn, những tác phẩm hay như thời địa này. Bởi thế mà, mỗi bài thơ như một đóa hoa giữ vườn xuân, nó cứ bung sắc tỏa hương không ngừng làm say mê lòng người. Cho đến ngày nay, chất men say ấy vẫn còn tha thiết lắm.
những bài văn đạt giải học sinh giỏi cấp tỉnh - thành phố toàn quốc pdf
Những bài văn NLXH đạt giải quốc gia PDF
Những bài văn của học sinh giỏi lớp 9
Những bài văn nghị luận xã hội đạt giải học sinh giỏi quốc gia
Những bài văn nghị luận xã hội đạt giải học sinh giỏi Quốc gia PDF
Tuyển chọn những bài văn đoạt giải quốc gia học sinh giỏi trung học phổ thông PDF
Cách làm bài nghị luận văn học học sinh giỏi
Những bài văn đạt giải học sinh giỏi