SHOP ACC GAME #SHOP-NICK-GAME #UY-TÍN #ONLINE-24/7
Truyện Chữ

Truyện ngắn Việt Nam

Truyện ngắn Việt Nam, với những câu chuyện đậm chất văn hóa và tâm hồn dân tộc, luôn mang đến cho độc giả những trải nghiệm phong phú. Từ những tác phẩm cổ điển đến hiện đại, mỗi câu chuyện không chỉ phản ánh đời sống mà còn khám phá sâu sắc tâm tư con người.

15 Truyện cổ tích ngắn hay

1. Vàng lấy con vua

Ngày xửa ngày xưa, có một em bé tên là Vàng, Vàng mới lên tám tuổi thì bố chết. Nhà nghèo, em phải theo mẹ đi làm thuê khắp đó đây. Quần quật suốt ngày mà mẹ con vẫn không đủ ăn. Những hôm mưa rét thấu xương cũng không được nghỉ. Nhiều bữa Vàng chỉ uống nước đi ngủ, còn dành một ít cơm nguội cho bà mẹ. Bà mẹ càng thương xót cho đứa con tội nghiệp của mình.

Ngày tháng qua đi, năm ấy Vàng đã lớn và mẹ Vàng cũng đã già yếu. Vàng một thân đi làm nuôi mẹ và nuôi mình. Thỉnh thoảng Vàng còn làm giúp hàng xóm. Tuy công việc nặng nhọc, bụng đói, nhưng ai nhờ việc gì Vàng đều cố sức làm đâu ra đấy. nét mặt lúc nào cũng vui vẻ. Vì vậy láng giềng ai cũng quý mến Vàng.

Tiếng lành đồn xa. Nhà vua biết tin Vàng làm ăn khéo, lại giỏi. Một hôm bèn cho lính đi gọi Vàng về lợp nhà cho mình. Vàng đến và trèo lên nhà ngay.

Trong khi dỡ mái xuống, chàng trông thấy phía dưới sân nhà một cô gái đang ngồi dệt vải. Vàng muốn biết mặt cô gái liền ngửa cổ nhìn lên, nhưng cô gái vẫn cúi mặt xuống tấm vải, tay đưa thoi. Vàng nghĩ ra một kế khác: lấy sợi lạt cứa vào tay mình cho chảy máu xuống tấm vải. Nhưng uổng công, cô gái vẫn thản nhiên đưa thoi. Vàng thấy không xong, càng nóng lòng bèn đánh bạo gọi:

– Cô ơi! Cho tôi xin miếng giẻ buộc chỗ đứt tay cho khỏi chảy máu.

Lần này cô gái đứng dậy đi tìm cái gậy và buộc miếng vải vào đầu gậy rồi từ từ giơ lên nóc nhà nhưng vẫn không hề nhìn Vàng. Thấy đầu gậy đã sát tay mình mà cô nàng không ngẩng mặt lên, Vàng lại giả vờ gọi:

– Cô ơi! Chua tới… chỗ này cơ mà!

Cô gái tưởng mình giơ lệch chỗ, mới ngửa mặt nhìn lên. Vàng thấy khuôn mặt xinh đẹp của cô gái hiện ra.

Tối hôm ấy, Vàng về nhà nói với mẹ:

– Mẹ ơi! Hôm nay con đi lợp nhà cho vua thấy con gái của vua xinh đẹp lắm. Mẹ đi hỏi cho con lấy cô ta làm vợ.

Bà mẹ nghe nói không khỏi ngạc nhiên. Một lát, bà thở dài:

– Mẹ con ta nghèo. Vua nào lại gả con gái cho con.

Nhưng Vàng cứ một mực van nài mẹ. Cuối cùng để chiều con trai, bà đi hỏi vua. Mẹ Vàng chưa nói hết lời, nhà vua đã nổi cơn lôi đình mắng vào mặt:

– Nhà ngươi láo thật. Dám đi hỏi con gái ta cho thằng khố rách áo ôm nhà mày ư? Lính đâu, đem mụ già vào cối giã.

Bọn lính răm rắp tuân theo. Mẹ Vàng bị một trận nhừ tử. Bà van lạy mãi nhà vua mới bằng lòng thả cho về.

Khi mẹ đi, Vàng ở nhà đứng ngồi không yên, bụng như có lửa đốt. Vàng hết ra trông lại vào ngóng. Thoáng thấy mẹ về, Vàng đã hỏi ngay:

– Mẹ ơi! Được chứ! Nhà vua đồng ý chưa?

Mẹ Vàng thở không ra hơi:

– Vợ con gì. Chưa nói hết lời, mẹ đã bị vua sai lính bỏ vào cối giã, lại còn chửi mắng. Con muốn lấy thì đi mà hỏi.

Ít lâu sau, Vàng lại đòi mẹ đi hỏi con gái vua cho mình. Thương con, mẹ Vàng lại đánh liều đi hỏi một lần nữa.

Khi bà già đến, nhà vua lần này không chửi mắng và sai lính bỏ vào cối giã như lần trước nữa, mà nói với mẹ Vàng:

– Nhà ngươi muốn công chúa ta làm con dâu thì về bảo con trai tìm cho ta một chum bọ chó và một cái chĩnh dái gà đem đến đây nộp thì ta mới gả công chúa cho.

Mẹ Vàng về nhà thuật lại cho con nghe. Vàng lập tức đi tìm khắp chốn, khắp nơi, nhưng không sao kiếm được một chum bọ chó và một chĩnh dái gà. Chàng buồn rầu khóc bên bờ suối. Bỗng một cụ già râu tóc bạc phơ hiện lên, hỏi:

– Làm sao cháu khóc?

Vàng thưa:

– Mẹ cháu đi hỏi con gái vua cho cháu, vua bảo phải tìm bằng đủ một chum bọ chó, một chĩnh dái gà thì vua mới gả. Cháu đi tìm khắp chốn nơi không được cháu buồn cháu khóc.

Cụ già nói:

– Không lo, cháu về trồng thật nhiều vừng đen và khoai sọ, đợi khi vừng chín, khoai sọ mập cũ, cháu gặt vừng đập lấy hột cho vào chum, rồi bắt mấy con bọ chó rắc lên trên, bịt kín miệng chum lại. Sau đó, cháu đào khoai sọ đem cạo vỏ luộc chín đổ vào chĩnh rồi bắt mấy con gà sống mổ thịt lấy dái nó để trên chĩnh khoai và bịt kín lại đem đi nộp vua.

Y lời, Vàng về nhà làm theo lời cụ dặn. Mấy tháng sau, vừng đã chín, khoai sọ cũng đầy đủ. Vàng làm đúng như lời cụ già và mang đến cho nhà vua.

Vua nhận được đồ lễ bèn mở ngay chum bọ chó nếm thử. Vua khen:

– Úi chao! Ngon quá! Thơm như vừng.

Rồi vua lại mở chĩnh dái gà ăn mấy miếng tấm tắc:

– Tuyệt! Tuyệt! Bùi như khoai sọ.

Ăn hết chum bọ chó và chĩnh dái gà, nhà vua trở mặt:

– Ngươi muốn làm rể ta à? Chưa đủ đâu! Ngươi phải đi kiếm một đôi gà tiên, một trống một mái đem về nộp cho ta thì lúc đó mới nói đến chuyện vợ con.

Vàng tức lắm. Nhưng đành phải đi tìm gà tiên. Được ba ngày, đi mỏi rời chân mà không thấy gà tiên đâu cả. Vàng ôm mặt khóc. Cụ già khi trước lại hiện lên hỏi:

– Làm sao cháu khóc?

Vàng đáp:

– Thưa cụ, vua bảo cháu phải đi tìm một đôi gà tiên, một trống, một mái tới nộp thì vua mới gả con gái cho. Cháu đi tìm ba ngày mà chẳng được.

Nói xong, Vàng lại ôm mặt khóc.

Cụ già bảo:

– Thôi, không khóc nữa. Gần nhà cháu có cái hang đá, bên trong có vợ chồng gà tiên. Hàng ngày cứ đến giờ ngọ, vợ chồng mới ra cửa hang. Gà chồng đứng một bên gáy, gà vợ đứng một bên nghe, cháu đến rình mà bắt. Gà gáy tiếng thứ nhất, chúng xê lại gần nhau, cháu đừng bắt, gáy tiếng thứ hai, chúng xích lại gần nhau hơn, cháu đừng bắt. Đến tiếng thứ ba, chúng sát lại bên nhau, cháu lại bắt cả đôi sẽ có gà tiên nộp vua.

Hôm sau, Vàng tìm đến hang đá ngồi rình. Đúng giờ ngọ bỗng cửa hang từ từ mở ra. Ga trống tiên, gà mái tiên đi ra, mỗi con đứng một bên cửa hang. Gà trống bệ vệ vươn cổ gáy tiếng thứ nhất, chúng xê lại gần nhau. Vàng vẫn ngồi yên. Gáy tiếng thứ hai, đôi gà xích vào nhau tí nữa. Vàng vẫn không nhúc nhích. Gáy tiếng thứ ba, gà trống, gà mái sát lại liền nhau. Lúc đó Vàng mới xông đến chộp lấy chân gà. Nhưng lạ thay, gà khoẻ vô cùng, chúng kéo tay Vàng vào hang, tức thì cửa đóng sập lại. Tay Vàng bị kẹp, đau quá cố rút ra, nhưng càng rút càng đau.

Qua một đêm, bà mẹ ở nhà không thấy con về sốt ruột quá bèn đi tìm. Đi mãi, đi mãi đến hang đá, bà thấy con nằm lăn ở cửa hang, bèn hỏi:

– Sao thế! Sao lại bị kẹp cả tay hả Vàng?

Vàng mếu máo đáp:

– Con tìm được gà tiên rồi. Nó lôi con vào, con vẫn túm chặt chân nó, bị kẹp… mẹ cứu con với!

Mẹ Vàng vừa thương vừa bực, trách con:

– Đấy mẹ đã bảo! Mình là con nhà nghèo ,à đòi lấy con vua. Lần trước vua bắt con nộp bọ, dái gà, lần này lại bắt nộp gà tiên đến nỗi mắc cạn khổ thế này.

Nói xong, bà túm lấy con kéo ra ngoài. Nhưng kéo thế nào cũng không ra. Bà tức quá nói tục một câu. Hang thần nghe không nhịn được, phì cười, cửa hang mở toang chốc lát, Vàng rút được tay, kéo cả đôi gà ra ngoài và trở về nộp vua.

Đến nhà vua, Vàng quỳ xuống mà rằng:

– Muôn tâu Hoàng thượng, thần đi tìm bọ chó, dái gà, gà tiên, con đã tìm đủ rồi, bây giờ vua cho thần được đón công chúa vua về ở với mẹ con thần.

Vua lại bảo:

– Đồ lễ cưới ngươi nộp đủ rồi. Bây giờ ngươi muốn đón vợ thì phải có nhà ở. Trong vùng này, có ông Thạch Long nhà to nhất, đẹp nhất, ngươi về làm được như thế thì hãy đến đây ta mới cho rước dâu.

Vàng lại quay về. Đến nhà Thạch Long, chàng lấy gậy đạp xung quanh nhà để đánh tiếng, Thạch Long nghe có người đạp vào nhà mình, chạy ra hỏi:

– Ai đập gì nhà tôi đấy?

Vàng đáp:

– Vua bảo tôi làm nhà to đẹp như nhà ông thì mới gả công chúa cho. Tôi đến thử đây.

Thạch Long nói:

– Cái hạng mày mà lấy được con vua thì tao nhường lại cái nhà này cho mày ở.

– Ông nói thật hay nói dối?

– Tao nói dối với cái thứ mày làm gì?

Vàng lấy cái đinh đóng vào cột rồi bảo Thạch Long: “Tu mi nam tử, nói thì phải như đnh đóng cột. Tôi đóng cái đinh này để làm chứng”.

Vàng đi đến nhà vua xin đón vợ về nhà mới. Hàng xóm láng giềng rậm rịch theo sau, thổi kèn, đánh trống, chuyện trò vui vẻ. Đến nhà Thạch Long, Vàng gọi Thạch Long và bảo:

– Tôi đón dâu về rồi, ông dọn nhà đi nơi khác cho vợ chồng tôi ở.

Thạch Long mắng:

– Nhà của tao sao mày lại đuổi tao đi?

Vàng vặn lại:

– Hôm nọ ông nói gì với tôi. Đinh đóng cột còn kia. Ông ở được thì ông ở cái nhà này. Không nhổ được thì ông đi nơi khác.

Thạch Long cố hết sức nhổ nhưng không được, phải đi nơi khác.

Vàng đưa vợ về nhà Thạch Long, rồi cả hai vợ chồng cùng đi đón mẹ. Khi vợ Vàng đến, mẹ Vàng không tin, hỏi:

– Cô là ai mà đến đây đón tôi?

Vợ Vàng thưa:

– Con là con dâu của mẹ. Vợ chồng con về đón mẹ đến ở với chúng con.

Mẹ Vàng trông thấy Vàng mới tin, bèn theo hai con đi ở nhà mới. Từ đấy gia đình mẹ Vàng thêm một người con dâu biết dệt vải giỏi. Nàng cũng rất mực thương quý mẹ chồng.

Năm sua, có giặc vua nước bên sang cướp. Vàng được vua cha sai đi đánh. Chàng bàn cùng với quân lính lấy rơm bện hàng nghìn hàng vạn người giả đem cắm khắp ngả đường, chờ giặc. Giặc đến, thấy bên Vàng quân sĩ hăng hái, lại đông hàng nghìn, hàng vạn, bèn rút lui.

Nhà vua thấy con rể tài giỏi, làm giặc lui không phải đánh, liền nhường ngôi cho.

Từ đó dân bản yên ổn làm ăn. Vợ chồng Vàng sống hạnh phúc bên nhau.

2. Ba cô tiên

Ngày xửa ngày xưa, có một chú bé mặc dầu tuổi đã lên sáu nhưng chú vẫn bé tí ti, chú chỉ bé vỏn vẹn bằng ngón tay cái của mọi người. Chính vì vậy ai cũng gọi chú bé là chú bé tí hon.

Nhà chú bé tí hon rất nghèo, bố mẹ chú phải đi làm thuê làm mướn cho nhà địa chủ, họ phải làm quần quật từ sáng sớm đến tối mịt mà vẫn không có tiền để có một cuộc sống no đủ. Tí Hon nhìn thấy bố mẹ vất cả nên chú rất thương, chỉ muốn đi làm kiếm tiền để phụ giúp bố mẹ.

Một hôm, Tí Hon nói với bố mẹ rằng chú muốn đi chăn trâu để phụ giúp bố mẹ. Bố mẹ tí hon thì thấy chú còn quá nhỏ, trong khi đó đàn trâu con nào cũng to lớn hơn chú gấp nhiều lần nên bố mẹ tí hon không cho chú đi trăn. Nhưng với sự năn nỉ kiên trì của Tí Hon thì bố mẹ chú cũng đành bằng lòng cho chú đi trăn thử.

Tí hon mặc dù nhỏ bé nhưng chăn trâu rất giỏi, chú không để con trâu nào ăn hại lúa ngô của bà con trong vùng, con nào con nấy cũng ăn no căng cả bụng. Cả làng ai nấy cũng đều khen Tí Hon. Nhà địa chủ cũng rất ưng Tí Hon chăn trâu.

Một hôm, cánh đồng làng không còn cỏ, Tí Hon phải dắt trâu lên trên núi để cho trâu ăn cỏ. Đang chăn trâu thì Tí Hon thấy có một bông hoa hồng to bằng chiếc nón nở trên cành cây. Tí Hon dắt trâu tới gần cây đó rồi cậu leo lên tai trâu rồi khẽ chuyển sang cành cây vào leo vào giữa bông hoa. Vào bông hoa tí hon thấy rất ngạc nhiên và thích thú vì bên trong bông hoa có ba cô tiên người cũng bé tí hon như cậu, một cô áo xanh, một cô áo vàng còn cô còn lại thì mặc áo đỏ. Ba cô tiên thấy tí hon thì vui mừng hỏi han rồi đem bánh kẹo ngon cho Tí Hon ăn. Tí Hon chưa ăn ngay mà lại bỏ số bánh kẹo các cô cho vào túi, thấy lạ nên ba cô tiên hỏi:

– Kẹo chúng tôi cho, sao Tí Hon không ăn ?

Tí hon đáp:

-Tôi không ăn, tôi mang về cho bố mẹ tôi ăn, nhà tôi nghèo lắm, bố mẹ tôi thì vất vả, tôi thương bố mẹ tôi lắm.

Ba cô tiên cùng nói:

-Tí Hon cứ ăn đi, chúng tôi còn nhiều kẹo bánh mà. Ăn xong chúng tôi sẽ giúp Tí Hon.

Một lát sau, đợi trâu ăn no cỏ. Tí Hon và ba cô tiên nhỏ bé leo lên ngồi trên sừng trâu và cùng đàn trâu đi về làng. Về đến nhà Tí Hon, ba cô tiên thấy đúng như Tí Hon kể, nhà của cậu rất nghèo, gian nhà thì đổ nát hoang xơ, ba cô tiên bảo Tí Hon đi tìm bố mẹ của chú về.

Ba cô tiên cầm bút thần vẽ một đám ruộng to, trên ruộng là những bông lúa nở chín vàng ươm như màu nắng, cô tiên áo xanh thì vẽ rất nhiều quần áo thật đẹp. Vừa vẽ xong thì tất cả ruộng, lúa và quần áo đều biến thành thật.

Vừa lúc ấy Tí Hon và bố mẹ về đến nơi.

-Ồ, nhà đẹp thế ? Ruộng của ai tốt thế ? Áo quần ai nhiều thế ?

Ba cô Tiên ở trong nhà bước ra chào bố mẹ Tí Hon và nói :

-Chúng cháu làm giúp hai bác và Tí Hon đấy. Từ nay hai bác không nghèo nữa. Có ruộng cày, có nhà ở, có quần áo mặc. Rồi cô Tiên áo xanh lại cho Tí Hon một chiếc áo, mặc áo vào là lớn bỗng lên.

Bố mẹ Tí Hon mừng quá, quay lại định cám ơn thì ba cô Tiên đã biến thành ba con bồ câu trắng bay vù lên mây. Từ đấy, không ai trông thấy ba cô Tiên đâu nữa. Còn Tí Hon lúc này rất to lớn, khoẻ mạnh làm việc rất chăm chỉ, khéo léo chẳng kém gì ba cô Tiên hoa hồng.

3. Sự tích cầu vồng

Xưa lắm rồi, các màu trên mặt đất bỗng dưng cãi nhau. Màu nào cũng tự cho rằng mình là tuyệt hảo, quan trọng nhất, hữu ích nhất và được ưa chuộng nhất.

Màu lục bắt đầu: Dĩ nhiên là tôi quan trọng nhất. Tôi là biểu tượng của sự sống và niềm hi vọng. Tôi được chọn để tạo thành cỏ cây. Thiếu tôi cảnh vật sẽ tiêu điều. Hãy nhìn vạn vật xung quanh, các bạn hẳn thấy tôi đúng.

Màu xanh ngắt lời: Bạn chỉ nghĩ đến những gì trên mặt đất, hãy ngước nhìn trời xanh và dõi ra biển biếc. Từ đáy biển sâu đến chín tầng mây cao, sự sống tồn tại được đều nhờ vào nước. Trời xanh bao la mang hình ảnh của sự thanh bình. Nếu không có thanh bình muôn loài ai nấy cũng sẽ xác xơ.

Màu tím cãi lại: Tôi là màu của sức mạnh. Từ vua quan đến hàng giáo phẩm đều chọn màu của tôi vì tôi tượng trưng cho quyền uy và thông thái. Ai ai cũng sẵn sàng lắng nghe và tùng phục.

Màu vàng cười vang: Sao toàn là chuyện nghiêm túc quá thế. Tôi cho rằng chỉ có tôi mới mang lại niềm vui và sự ấm áp cho đời mà thôi. Này nhé, mặt trời vàng, mặt trăng vàng, các vì sao vàng, tất cả đem lại sự vui tươi và nụ cười cho toàn thế giới. Vắng tôi là thiếu hẳn đi niềm hân hoan.

Đến lượt màu cam tự khen: Tôi là màu của sức khỏe, của sự đổi mới. Có lẽ tôi là một màu quí vì tôi phục vụ mọi nhu cầu của con người. Tôi mang các sinh tố quan trọng nhất, hãy nhìn các loại trái cây thì biết. Tôi ít khi có mặt nhưng khi tôi nhuộm bầu trời bình minh hay bầu trời hoàng hôn, vẻ đẹp mê hồn của tôi khiến không còn ai nhớ đến các bạn nữa.

Màu chàm tiếp lời, giọng nhỏ nhẹ nhưng quyết liệt: Các bạn hãy nghĩ đến tôi xem nào. Tôi là màu của sự tĩnh lặng. Phải để ý đến tôi vì thiếu tôi, các bạn sẽ trở nên hời hợt, thiếu sâu sắc. Tôi đại diện cho tâm hồn, ý tưởng và sự tinh tế. Ai cũng cần tôi để có được một cuộc sống cân bằng cũng như tạo nên sự khác biệt. Tôi hữu dụng cho lòng tin, những giây phút trầm tư, an lạc nội tâm.

Đến lúc này màu đỏ không thể kiềm chế được nữa, quát to: Ta đây mới đích thị là “SẾP”. Ta là máu, là sinh lực. Ta là màu báo nguy, màu của sự can đảm. Ta là lửa. Ta là màu của đam mê, của tình yêu, của hoa hồng, của hoa anh túc… Thiếu ta, địa cầu sẽ ảm đạm như mặt trăng kia.

Và rồi các màu lại tiếp tục khoe khoang; mỗi màu tự cho mình mới là quan trọng thật sự. Cuộc tranh cãi càng lúc càng căng thẳng, bỗng nhiên một tia chớp xẹt đến, tiếp theo ngay sau là một tiếng sét to. Mưa như thác đổ xuống các màu khiến chúng phải sát cánh lại để che chở cho nhau.

Mưa nói: Thật là ngốc nếu các bạn mãi chống đối nhau. Các bạn không biết rằng mỗi màu được tạo ra cho một mục đích rõ ràng sao? Mỗi màu đều có một tính cách độc nhất và đặc biệt trong thế giới này. Hãy bắt tay nhau và cùng đến với tôi.

Các màu nghe có lý và làm theo đề nghị của mưa. Chúng đến bắt tay nhau.

Mưa khuyên tiếp: Từ giờ trở đi, khi nào mưa mỗi bạn hãy nổi lên thành một cầu vồng trên bầu trời để chứng tỏ các bạn đã chung sống hòa bình. Cầu vồng là hình ảnh của sự hy vọng và hòa giải.

4. Tra tấn hòn đá

Ngày xưa có hai vợ chồng một người nghèo, suốt năm đầu tắt mặt tối, ăn bữa sớm không biết có bữa chiều. Kỳ ấy năm hết Tết đến mà trong nhà không có lấy một bát gạo. Mãi về sau người chồng chạy hết các cửa nhà giàu, nói sùi bọt mép mới vay được ba công non. Mừng quá, chồng vội vã mang về để đến sáng mai là ngày ba mươi cho vợ kịp đi sắm Tết.

Sau khi mua hết số tiền, người vợ đội mủng lên đầu trở vào cổng chợ. Trên đường về phải lội qua một cái mương nước. Chẳng may cho bà ta, khi bước chân lên một hòn đá thì bị trượt chân ngã vật xuống nước. Bao nhiêu gạo, thịt, vàng, hương, v.v… trong mủng đều ngập vào bùn. Thấy số phận đen đủi, người đàn bà nọ không buồn nhặt nữa, ngồi xoài xuống bên vệ đường, khóc lóc rất thảm thiết.

Đang khóc, bỗng có một ông quan huyện đi hành hạt ngang qua đó. Thấy chuyện lạ, quan sai lính dừng võng, đòi người đàn bà tới hỏi vì sao mà khóc? Người đàn bà mếu máo kể lại tình cảnh của mình cùng việc xảy ra vừa rồi cho quan nghe và nói thêm:

– Thiếp không sợ chồng đánh mà chỉ thương thân thôi! Chẳng biết đến bao giờ thì vận đen mới thôi không ám ảnh nữa.

Quan huyện vốn có lòng thương người. Khi nghe những lời than thở, ông rất động lòng, bèn nghĩ ra một kế để giúp đỡ người đàn bà nọ ăn một cái Tết ngon lành. Ngồi trên võng, ông truyền lệnh:

– Cứ như lời mụ khai thì hòn đá kia là kẻ phạm tội. Dù nó là đá cũng không thể vượt được phép nước. Ta sẽ vì nhà mụ mà bắt nó bồi thường. Lính đâu! Đưa bị cáo về công đường đối chất.

Thấy bọn lính hầu ngơ ngác, ông thét làm ngay.

Khi thấy đá ỳ không dậy, ông bảo trói lại và khiêng về huyện tra tấn cho được mới nghe.

Lại nói về chuyện hôm ấy có nhiều người nghe tin quan huyện tra tấn hòn đá để đòi bồi thường gạo thịt, vàng, hương cho người đàn bà thì ai nấy không ngăn được tò mò, vội đổ xô tới huyện đường để xem một tý. Họ xúm đen đặc ở cổng huyện. Quan truyền cho lính đặt hai cái thúng ở cổng, dặn rằng ai bỏ vào đấy ba mươi đồng kẽm sẽ cho vào xem. Trong khi đó, ở phía công đường có mấy người đã được cắt sẵn việc tra tấn. Tiếng hỏi cung, tiếng quát nạt, tiếng roi vụt văng vẳng phát ra. Mọi người tranh nhau ném tiền để được vào cửa. Khi hai cái thúng đã đầy ắp tiền, quan bèn bảo bọn lính lệ nghỉ roi vọt, rồi ông đứng trước mọi người trỏ nguyên cáo bị cáo phân xử:

– Bản chức đứng trước một vụ án khá rắc rối. Theo như lời nguyên cáo cùng tất cả chứng tá khai thì tội trạng bị cáo đã rành rành, không thể chối cãi vào đâu được, mặc dầu đến giờ nó vẫn chưa chịu cung xưng. Bản chức quyết bắt bị cáo bồi thường đầy đủ số thiệt hại. Thế nhưng, xét nó không có gì để thi hành bản án này. Tất cả mọi người đến đây vì thương hại bị cáo giúp mỗi người một ít. Vậy bản chức quyết định: số tiền trong thúng bất kể bao nhiều đều giao cho nguyên cáo có quyền sử dụng. Còn bị cáo được phóng thích trở về chỗ cũ hay đi đâu mặc ý.

Tất cả mọi người biết là mắc mưu quan nhưng không một người nào tỏ vẻ tiếc của cả. Còn người đàn bà nọ sung sướng đưa tiền về nhà.

5. Kiện ngành đa

Ngày xưa có hai vợ chồng một người lái buôn hương. Họ chưa có con cái gì cả. Chồng vắng nhà liên miên, chỉ thỉnh thoảng mới về một lần. Có lần chồng đi khá lâu. Vợ ở nhà lọt vào mắt một tên xã trưởng. Dựa vào quyền thế, xã trưởng tìm cách quyến rũ người đàn bà đó và cuối cùng hai người tằng tịu với nhau. Nhưng hắn rất khôn ngoan, thỉnh thoảng mượn cớ đi tuần đến với người đàn bà một lần. Vì thế trong xóm ngoài làng chả một ai ngờ cả. Lần ấy ông lái hương mải mê buôn bán nên không tiện về nhà. ông cất hàng đi rất xa và làm ra rất nhiều tiền. Sau ba năm, một hôm gần ngày giỗ cha, ông mới sực nhớ đến vợ bèn thu xếp tiền nong tìm về quê cũ. Sắp về tới làng thì trời đã tối, ông sực nghĩ tới số tiền công lao mồ hôi nước mắt trong mấy năm trời “Ta đi vắng lâu quá! Không biết chừng ở nhà có sự thay đổi”. Nghĩ thế, ông đem 120 lạng bạc trong bồ ra buộc làm một gói. Khi đến cây đa đầu làng, ông ta trèo lên và đem số bạc ấy giấu vào hốc cây. ông khấn:

– Tôi là dân làng này, tôi làm ăn dành dụm được có chừng ấy, tôi gửi cho ngài, trăm sự nhờ ngài giữ hộ. Vợ thấy chồng về lăng xăng cơm nước tiếp đón hết sức thân mật. Nhưng khi nhìn thấy chiếc bồ không, liền hết lời trách móc:

– Anh buôn thua bán lỗ làm sao mà bỏ vợ dại ở nhà ba năm đằng đẵng không đoái không hoài gì cả. Tiền nong anh vứt đi đâu? Trời ơi sao mà tệ thế! Thấy tình hình không có gì đáng ngại mà vợ vẫn có vẻ một lòng một dạ với mình, người lái hương yên tâm, nên đêm ấy khi nằm lên giường, ông tỉ tê kể hết việc làm ăn khấm khá của mình cùng là việc gửi bạc ở hốc cây đa đầu làng cho vợ nghe. Không ngờ đêm ấy, xã trưởng theo thói quen tìm đến nhà nhân ngãi. Hắn quen chó, lại thuộc cách mở cổng nên chả mấy chốc đã lọt vào thềm nhà. Sắp bước vào buồng, hắn bỗng nghe tiếng trò chuyện nhỏ to. Biết là chồng cô ả đã về, hắn đứng lại nghe ngóng. Và khi biết rõ người lái hương giấu bạc ở cây đa, hắn mừng quá vội lủi một mạch ra đầu làng, cuỗm ngay gói bạc. Hắn lấy một cách ngon lành, chả một ai biết cả. Rạng ngày hôm sau, khi người lái hương ra lấy bạc thì ôi thôi, bạc đã không cánh mà bay mất tự bao giờ. Xót lòng vì mất của mà không biết kêu van với ai, ông ta đấm ngực kêu trời rất thảm thiết. Mãi về sau nghe tin gần miền có một ông Trạng xử kiện nổi tiếng, ông bèn chặt lấy một cành đa mang đến kiện với Trạng. Tuy thấy sự tình éo le, Trạng cũng nhận lấy cành đa rồi bảo người lái hương về, sáng mai lại đến. Lập tức, Trạng sai quân hầu rào bốn bên cây đa lại, không cho một ai đến gần, rồi ngầm sai đào hố ở gốc, cho người xuống nấp dưới đó. Sáng hôm sau, Trạng đến đóng đinh ở gần cây rồi trước mặt bàn dân đông đủ, Trạng bắt nguyên cáo và bị cáo ra đối chất. Cây nhận có giữ gói bạc nhưng không biết người nào lấy đi. Hỏi mãi cây vẫn không khai được một điều gì. Quân hầu của Trạng được lệnh khảo đả cây túi bụi. Mọi người đứng trước dinh Trạng đều nghe bị cáo van khóc rối rít. Mãi đến ngày thứ ba, bị cáo mới tả cho biết mặt mũi người ăn trộm, nhưng chỉ nói riêng cho Trạng nghe mà thôi. Liền đó, Trạng cho người lái hương về, ba ngày sau sẽ bắt tên trộm hoàn lại số tiền, nhưng trước đó phải dọn cỗ bàn tạ thần minh và mời làng nước đến ăn mừng về việc tìm lại được của. Trạng còn ghé tai dặn nhỏ ông ta: “Trong nhà có bao nhiêu chó dữ phải thả ra trong khi khách đến”.

Người lái hương tin lời Trạng, về nhà mổ trâu khoản đãi bà con làng nước. Mỗi một người đến ăn cỗ lại làm cho mấy con chó cũi một phen sủa hết hơi. Duy chỉ có xã trưởng vì ba năm lui tới nên chó không còn lạ hơi nữa. Khi thấy mấy con chó vẫy đuôi mừng xã trưởng, lập tức những người của Trạng, chực sẵn ở sau nhà, ra bắt lấy giải đi. Trước mặt Trạng, ban đầu xã trưởng chối lấy chối để. Nhưng sau thấy Trạng vạch tội hắn có ngành có ngọn và cho biết thêm là cây đã thú thật mặt mũi người lấy trộm như thế, như thế nên hắn đành cúi đầu nhận tội. Ngày nay, người Nghệ Tĩnh có câu kiện ngành đa ý nói kiện một cách gián tiếp, nghĩa là kiện một sự việc này nhưng chính nhờ đó mà nảy ra ánh sáng một sự việc khác.

6. Sự tích chim cánh cụt

Ngày xửa ngày xưa, cánh của loài chim cánh cụt dài lắm, nó bay xa như chim én và mạnh mẽ như đại bàng. Nhưng rồi trong một lần dạo chơi cảnh sông hồ, cánh cụt quen và kết bạn với loài ngan (vịt xiêm). Ngan chẳng những có tật xấu lắm lời nhiều chuyện mà lại còn có ngoại hình chẳng đẹp đẽ gì, đôi cánh của nó ngắn cũn cởn, lông thưa như cổ gà chọi và da dẻ có mùi hôi. Chim cánh cụt thương cảm bạn bởi những khiếm khuyết ấy, nên nó hết lòng yêu thương bạn. Nhưng ngược lại, Ngan chơi với chim cánh cụt vì có ý đồ xấu: nó ham muốn đôi cánh dài, khỏe và óng mượt của bạn.

Sau một thời gian thân thiết, ngan vờ vịt khóc lóc tỉ tê, than thân trách phận, nó ước gì có thể bay được nó sẽ sát cánh bên bạn suốt đời. Một hôm Ngan bảo cánh cụt ngủ một giấc thật sâu rồi Ngan nhổ lấy nửa bộ lông cánh của chim cánh cụt mà dùng. Khi tỉnh dậy, chim cánh cụt kinh hoàng kêu lên một tiếng thảm thiết khi thấy đôi cánh của nó không còn nữa, tên bạn xấu xa gian ác kia đã nhổ mất bộ lông đẹp đẽ của nó và bỏ trốn mất rồi!

Quá đau khổ chim cánh cụt mất hết niềm tin yêu vào cuộc đời. Nó lầm lũi đi về phương Bắc, định vùi thân chết trong giá băng. Thần băng giá hiện ra hỏi: “Làm sao con lại buồn như thế?”

Cánh cụt kể lại đầu đuôi câu chuyện cho thần nghe. Nghe xong thần hỏi Cánh cụt: “Con hãy cho ta biết: Đôi cánh ngoài việc dùng để bay, nó có ích lợi gì khác không?”.

Chim cánh cụt nghĩ mãi không ra, nó im lặng lắc đầu. Thần lại hỏi: “Vậy, đôi cánh là phương tiện để di chuyển. Nhưng sao cánh đã bị cụt mà con vẫn có thể tới được nơi đây?”.

Chim đáp: “Dạ, vì con còn đôi chân”. Thần nói: “Vậy, đôi cánh không phải là phương tiện di chuyển di nhất, có đúng không?”.

Chim gật đầu và bỗng dưng nó cảm thấy có điều gì đó thú vị. thần lại hỏi: “Trên đời còn nhiều loài khác, chúng không có cánh, không có cả chân nhưng tại sao chúng vẫn di chuyển được?”.

Lần này chim cánh cụt đã nhận ra ý nghĩa của cuộc sống, nó reo lên: “ Chúng có những cách riêng của chúng, con sẽ tìm được cách riêng của mình!”.

Nhưng rồi nó lại chợt buồn hiu: “Nhưng con không muốn quay lại chốn cũ, mà cũng không thể sống được ở đây!”.

Thần cười lớn, băng hà lay động , khói lạnh mịt mờ: “Xứ sở của ta toàn là núi băng, nhưng không có nơi này địa cầu sẽ bị tận diệt. Ở đâu cũng có sự sống, nếu con biết vươn lên và cố gắng thì ở đâu cũng có thể sống và phát triển được. Con hãy cứ thử cố gắng đi nhé”. Nói xong thần băng giá biến mất.

Chim cánh cụt nghe theo lời sống tốt đẹp hơn. Nó sống thoải mái trên bờ, bơi lội còn nhanh hơn cả những loài sống dưới nước, lấy biển cả làm không gian. Nó yêu các bạn hiền hào tốt bụng ở nơi đây và yêu xứ sở băng giá ấy mãi đến bây giờ.

Còn chuyện về con ngan dối trá kia ra sao? Nó cũng chẳng bay được, thỉnh thoảng chỉ cất cánh bay lên ngang nóc nhà rồi lại rơi bịch xuống. điều đáng xấu hổ cho nó là từ khi lấy cắp bộ lông cánh của chim cánh cụt, nó bị muôn thú chê cười và xa lánh.

7. Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non

Ngày xưa ở Trung Quốc có Cao Biền rất giỏi nghề địa lý. Những phép hô thần tróc quỷ, ông đều thông thạo. Tiếng đồn vang khắp nơi. Hoàng đế Trung Quốc nghe tiếng liền triệu Biền vào cung ủy thác cho việc kiếm một ngôi đất xây dựng lăng tẩm. Cao Biền vâng lệnh và sau năm năm tìm tòi, đã kiếm được một kiểu đất quý mà theo ông có thể giữ ngôi nhà Đường vững như bàn thạch. Sau khi công việc hoàn thành, hoàng đế rất khen ngợi, sai ban nhiều vàng bạc cùng phong tước lớn cho Biền. Nhưng Biền vốn biết trong kho tàng của hoàng đế có một ngòi bút thần có phép mầu nhiệm mà chính hoàng đế và cả triều thần không một ai biết cả. Vì thế Biền không nhận vàng, chỉ nói:

-Tâu bệ hạ, hạ thần không muốn lấy vàng bạc của bệ hạ. Chỉ muốn xin một kho trong trăm ngàn kho đồ dùng của bệ hạ bằng cách là để hạ thần tự tay rút trong chùm chìa khóa kho tàng mà quan tổng quản đang nắm giữ, nhằm đúng chìa kho nào thì được phép lấy kho ấy. Hoàng đế nghe nói hơi ngạc nhiên nhưng vốn trọng tài Biền, lại thấy ý kiến hay hay nên vui lòng để Biền làm chuyện may rủi xem thử thế nào. Quả nhiên kho mà Biền chỉ, đúng là kho đựng toàn bút lông dùng cho triều đình. Khi được sử dụng hàng vạn cây bút, Biền mang đến một hòn đá, lần lượt đem chọc mạnh từng ngòi lông vào đá. Nhưng chẳng có ngòi nào được toàn vẹn. Mỗi lần thấy tòe ngòi, ông lại vứt đi và tiếp tục chọc ngòi khác vào đá. Cứ thế cho đến lúc trong kho sắp vợi cả bút thì bỗng có một quản bút chọc thủng vào đá mà ngòi lông vẫn còn nguyên vẹn, Biền mừng quá reo lên:

– Ta tìm được ngòi bút thần rồi!

Biền liền cầm bút thần vẽ thử một con rồng lên mặt tường, chừa hai con mắt. Đến khi điểm nhãn, rồng tự nhiên cuộn mình được và tách ra khỏi bức tường. Rồi rồng vụt lên trời, bay biến vào đám mây trước con mắt kinh ngạc của mọi người. Biền lại vẽ thêm nhiều con vật khác và những con vật ấy đều hoạt động không khác gì những con vật có thực. Sau cùng Cao Biền vẽ một con diều rất lớn, dùng bút thần nhúng mực điểm mắt cho diều. Diều đập cánh bay lên. Lập tức Biền cưỡi lên lưng và diều đưa vút lên trên không. Thế là Biền cưỡi diều vượt qua muôn trùng núi sông sang đến nước Nam. Trên lưng diều, Biền đưa mắt xuống tìm huyệt đất quý. Quả nhiên không bao lâu, ông tìm thấy ở gần một con sông, cứ như bây giờ là sông Trà Khúc tỉnh Quảng Ngãi, một huyệt đất phát đế vương. Huyệt đất ấy quý không đâu bằng mà lại chỉ trong một ngàn ngày là phát. Đó là một cái hàm con rồng lấp dưới nước mà chỉ có con mắt của Biền mới khám phá được. Từ đó, Biền có ý muốn hưởng một cuộc sống sung sướng xa xỉ vào bậc nhất thiên hạ. Nhưng khi nghĩ lại thì hắn rất tiếc là không có con trai mà thân mình lại đã già mất rồi; nếu được làm vua cũng không còn hưởng được mấy nỗi. Biền mới tính sẽ nhường cho rể. Nếu nó làm vua thì ông bố vợ tất cũng được bội phần trọng đãi, mà dòng dõi con gái mình cũng hưởng phúc lâu dài. Nhưng muốn thực hiện công việc “đại sự” này cần phải giữ hết sức bí mật, nếu không sẽ mất đầu như chơi. Nghĩ vậy, Biền trở về Trung Quốc bảo người con rể đào lấy hài cốt cha y đem sang nước Nam để cải táng. Trong việc này Biền chỉ bàn kín với một người học trò mà thôi. Nhưng người học trò mà Biền tin cậy lại muốn miếng đất quý ấy hoàn toàn thuộc phần mình hưởng, nên khi được lệnh thầy mang hài cốt thì hắn cũng đào luôn hài cốt của cha mình sang Nam.

* * *

Bấy giờ hàm rồng đang thời kỳ há miệng. Biền bảo học trò lặn xuống ném gói xương vào giữa miệng rồng, chờ cho nó ngậm lại hãy lên. Người học trò đem gói xương của cha mình đánh tráo vào, còn gói xương kia thì bỏ ở một bên mép. Xong việc đó, Cao Biền bảo con rể chọn năm giống lúa, mỗi thứ một thúng mang đến huyệt đất nói trên, sai đào đúng vào chỗ vai rồng thành năm cái huyệt. Mỗi huyệt Biền sai rấm một thúng lúa rồi lấp đất lại thành năm ngôi mộ. Hắn giao cho chàng rể một ngàn nén hương, dặn mỗi ngày thắp một nén, đúng hai năm chín tháng mười ngày thì tự khắc quân gia dưới huyệt nhất tề dậy cả. Dặn đâu đấy, Biền trở về Trung Quốc. Thời gian trôi qua. Hôm ấy chỉ còn mười ngày nữa là hết hạn công việc mà Cao Biền đã dặn, thì tự nhiên con gái hắn ở nước Nam đẻ luôn một lúc ba bé trai, mặt mũi dị kỳ. Vừa mới sinh ra, ba đứa đã biết đi biết nói: một đứa mặt đỏ tay cầm ấn, một đứa mặt màu thiếc, một đứa mặt màu xanh, đều cầm dao sáng quắc. Cả ba nhảy tót lên giường thờ ngồi, đòi đem quân thu phục thiên hạ. Người nhà ai nấy xanh mặt.

Chỉ trong một buổi tiếng đồn rầm lên. Mọi người thấy sự lạ đổ tới xem như đám hội. Người rể của Biền sợ quá, bảo vợ: “Mày đẻ ra ma ra quỷ, nếu không sớm trừ đi thì khó lòng sống được với triều đình. Chẳng qua cha mày làm dại, nên mới sinh ra như thế”. Thế rồi y chém tất cả. Trong lúc bối rối người nhà của y vì lầm nên đốt luôn một lúc hết thảy những nén hương còn lại. Bỗng dưng mặt đất chuyển động. ở dưới năm ngôi mộ có tiếng rầm rầm mỗi lúc một lớn. Rồi nắp mộ bật tung ra, bao nhiêu quân gia từ dưới đó nhảy lên. Nhưng vì còn non ngày nên sức còn yếu, đứng chưa vững, người nào người ấy đi lại bổ nghiêng bổ ngửa, cuối cùng đều chết sạch. Lại nói chuyện Cao Biền chờ cho đến tận ngày hẹn mới cưỡi diều bay sang nước Nam. Nhưng lần này diều bị ngược gió nên sang không kịp. Khi diều hạ cánh xuống thì người con rể đã phá hỏng mất công việc của hắn. Hắn bực mình vô hạn. Sau khi căn vặn để hiểu rõ câu chuyện, hắn rút gươm chém chết cả học trò lẫn rể. Từ đó Cao Biền sinh ra chán đời, chả thiết gì nữa. “Không được ăn thì đạp đổ”, nghĩ thế, hắn bèn cưỡi diều đi khắp nước Nam để ếm huyệt và phá tất cả những long mạch của nước này. Ngay chỗ hàm rồng nói trên, hắn dùng phép chém đứt cổ con rồng đó đi. Cũng vì vậy mà ngày nay người ta nói nước sông Trà Khúc đỏ như máu là bởi máu tự cổ con rồng chảy ra đến nay vẫn chưa dứt.Đến Nghệ An, Biền thấy trên một hòn núi mà ngày nay còn gọi là núi Đầu Rồng ở sát bờ biển có huyệt đế vương. Hắn bèn làm bùa bằng gang đóng vào đỉnh núi. Từ đó trở đi trên đỉnh núi ấy không một cây cối gì còn mọc được. ở Thanh Hóa, Cao Biền cũng thấy có huyệt đất quý. Nhưng hắn thấy con rồng đó què một chân, cho rằng nếu có phát đế vương thì không thể phát to được. Cho nên hắn cho diều đi thẳng không ếm nữa. Cũng vì thế người ta nói mấy đời vua chúa trị vì ở nước Nam đều phát tích ở Thanh Hóa. Khi diều bay qua làng Thiên Mỗ (bây giờ là làng Đại Mỗ, tỉnh Hà Đông) Biền thấy có cái giếng ở vệ sông mà bây giờ là Nhuệ Giang cũng có huyệt đế vương. Hắn bèn cho diều hạ xuống là là sát mặt đất, đoạn thuận tay ném luôn cây bút thần của mình xuống lòng giếng. Người ta nói cây bút ấy sau rồi hóa thành một khúc gỗ cắm chặt xuống đáy giếng. Không một a i dám động đến nó. Mãi về sau trong làng có một ông thám hoa có tính hiếu kỳ mới tâu vua xin hai con voi về kéo thử khúc gỗ đó lên. Họ tết một chiếc thừng lớn: một đầu buộc vào khúc gỗ, còn một đầu buộc vào cổ voi. Nhưng khi voi cất bước thì tự nhiên ở những xóm làng bên cạnh, đất chuyển động ầm ầm, đồng thời nhà cửa phát hỏa tứ tung. Lần ấy ông thám đành bỏ dở công việc vì ông ta sợ con rồng bị đau giẫy giụa làm hại đến dân sự. Điều đặc biệt là từ bấy đến nay nước giếng ấy không bao giờ cạn. Mỗi khi nước trong, người ta vẫn thấy có bóng khúc gỗ đen đen ở dưới đáy. Để tâng công với hoàng đế, Cao Biền vẽ bản đồ từng kiểu đất một rồi viết thành sách ghi chú rất tinh tường đem dâng lên vua Đường. Đại ý nói tất cả những mạch đất quý nhất của nước Nam, hắn đều đã trấn áp xong. Duy có kiểu đất ở chỗ trung độ (tức bây giờ là Hà Nội) thì hắn đã sai đắp một cái thành gọi là thành Đại La để chặn long mạch. Lễ trấn áp này Biền làm rất công phu và linh đình. Trên hòn núi ở xa xa về phía Bắc thành Đại La, hắn cho dựng một cái đàn tràng. Trong thành Đại La, hắn sai nung một lúc tám vạn cái tháp bằng đất nhỏ. Nung xong, Biền huy động tám vạn quân, mỗi tên quân vai vác giáo, mũi giáo xóc một cây tháp, đi từ Đại La tiến dần lên núi. Vừa đi họ vừa hô mấy tiếng “Thống vận hoàng đế”. Đến nơi đặt tháp xuống đỉnh núi rồi tám vạn quân ấy lại rùng rùng kéo về Đại La. Cũng vì có những việc kỳ dị như thế nên núi ấy từ đó mang tên là núi Bát Vạn. Hoàng đế Trung Quốc đọc sách của Cao Biền lại càng khen ngợi hắn. Nhưng việc làm của Biền bị dân chúng nước Nam oán ghét. Họ lập tâm chờ dịp giết hắn cho bõ hờn. Một hôm, Biền cưỡi diều bay vào miền cứ như bây giờ là Ninh Bình. ở đây người ta đã chuẩn bị cung nỏ chờ khi diều của hắn bay qua là là mặt đất, là cả bao nhiêu người cùng nhất tề phóng tên. Diều bị gãy cánh rơi xuống núi. Biền bị trọng thương, sau đó phải đưa về Trung Quốc. Hòn núi ấy ngày nay còn mang tên là núi Cánh Diều, một trong ba ngọn núi ở gần trị sở Ninh Bình. Cao Biền về nước được ít lâu bị thủ hạ giết chết. Người ta theo lời dặn của hắn, đem hài cốt chôn ở một cái gò cát ở mé biển miền Nam, cứ như bây giờ thuộc tỉnh Phú Yên. ở đó mặc dầu sóng dồi gió dập thế nào đi nữa, cát ở mả vẫn cũng không bay đi chỗ khác. Người đi thuyền qua đó vẫn gọi là mả Cao Biền.

8. Sự tích sông Nhà Bè

Ngày xưa ở Gia-định có một người tên là Thủ Huồn. Hắn xuất thân làm thơ lại. Trong hơn hai mươi năm luồn lọt trong các nha các ti, hắn đã làm cho bao nhiêu gia đình tan nát, bao nhiêu người bị oan uổng; do đó hắn đã vơ vét được bao nhiêu là tiền của. Vợ hắn chết sớm lại không có con cho nên tiền bạc của hắn không biết tiêu đâu cho hết. Ngoài số chôn cất, hắn đem tiền tậu ruộng làm nhà. Ruộng của hắn cò bay thẳng cánh, mỗi mùa thu hoạch kể hàng ngàn “giạ” lúa.

Khi thấy cuộc sống quá thừa thãi, hắn bèn thôi việc về nhà, sống một cuộc đời trưởng giả.

Một hôm, có người mách cho Thủ Huồn biết chợ Mạnh-ma ở Quảng-yên là chỗ người sống và người chết có thể gặp nhau. Muốn gặp người chết, người sống phải chờ đến mồng một tháng Sáu, mang một món hàng vào chợ hồi nửa đêm mà đi tìm. Thủ Huồn là người rất yêu vợ. Tuy vợ chết đã ngoài mười năm nhưng hắn vẫn không lúc nào quên. Hắn bèn giao nhà lại cho người bà con rồi làm một chuyến du lịch ra Bắc, mong gặp lại mặt vợ cho thỏa lòng thương nhớ bấy lâu.

Khi gặp vợ, Thủ Huồn không dám hỏi vì thấy vợ ăn mặc rất đài các. Sau cùng người đàn bà ấy cũng nhận ra được. Thủ Huồn mừng quá vội dắt vợ ra một chỗ kể cho vợ nghe cảnh sống của mình từ lúc âm dương cách biệt. Rồi hắn hỏi vợ:

– Mình lâu nay làm gì?

– Tôi làm vú nuôi trong cung vua. Cuộc đời của tôi không có gì đáng phàn nàn. Tôi có một gian nhà riêng trong hoàng cung, cái ăn cái mặc được chu cấp đầy đủ.

Hắn nói:

– Tôi nhớ mình quá. Tôi muốn theo mình xuống dưới ấy ít lâu có được không?

– Đi được. Nhưng chỉ trong vài ngày là cùng, nếu quá hạn sẽ nguy hiểm.

Thủ Huồn và vợ cùng đi. Qua mấy dặm đường tối mịt, chả mấy chốc đã đến cõi âm. Hắn rùng mình khi lọt qua bao nhiêu cổng trước lúc vào thành nội, qua những tên quỷ gác cổng có những bộ mặt gớm ghiếc. Nhờ có vợ nên chỗ nào cũng vào được trót lọt. Đến một gian nhà thấp, vợ bảo chồng:

– Đây là nhà bếp, đằng kia là nhà ngục, trước mặt là cung hoàng hậu, chỗ tôi túc trực hàng ngày. Qua khỏi đấy là cung vua. Cứ ẩn tạm trong buồng vắng này vì không thể lên buồng tôi trên kia được. Tôi sẽ kiếm cách cho chàng đi xem một vài chỗ, nhưng rồi phải về ngay.

Chiều hôm đó người vợ về trao cho Thủ Huồn một mảnh giấy phép và nói:

– Chỉ có cung vua và cung hoàng hậu thì đừng có vào còn mọi nơi khác chàng cứ đi xem cho thỏa thích.

Hắn lượn mấy vòng xung quanh nhà bếp rồi tiện chân đến nhà ngục. Chưa lọt khỏi cổng mà những tiếng kêu khóc, tiếng la hét ở phía trong làm cho hắn bồn chồn. Qua mấy phòng chuyên mổ bụng, móc mắt, cắt tay, v.v… hắn thấy đây quả là nơi hành hạ tội nhân kinh khủng, đúng như lời đồn ở trên trần thế.

Sau cái bàn xẻo thịt là cả một kho gông. Trong đó có một cái gông đặc biệt: nó vừa to vừa dài, làm bằng những thanh gỗ nặng như sắt. Thủ Huồn lân la hỏi người cai ngục:

– Thứ gông này để làm gì?

– Để chờ một thằng ác nghiệt ở trần xuống đây. Bao nhiêu những cái gông trong này đều đã có chủ cả. Cứ xem gông to hay nhỏ thì biết tội ác của nó.

Thủ Huồn lại hỏi:

– Thế cái thằng sẽ đeo cái gông vừa to vừa dài đó là ai?

Lão cai ngục thủng thỉnh giở một cuốn sách vừa to vừa dày chỉ vào một hàng chữ, đọc: “Hắn là Võ Thủ Hoằng tức là Thủ Huồn”. Rồi nói tiếp:

– Thằng cha đó ở Đại-nam quốc, Gia-định tỉnh, Phúc-chính huyện…

Nghe nói thế, Thủ Huồn giật mình mặt xám ngắt. Nhưng hắn vẫn giữ được vẻ bình tĩnh. Hắn hỏi thêm:

– Thế nào? Hắn có tội gì?

Lão cai ngục mắt vẫn không rời quyển sách.

– Khi làm thơ lại hắn bẻ mặt ra trái làm bao nhiêu việc oan khốc đến nỗi tội ác của hắn đen kín cả mấy trang giấy đây. Này nghe tôi đọc này: năm Ất sửu hắn sửa hai chữ “ngộ sát” thành “cố sát” làm cho hai mẹ con thị Nhân bị chết để cho người anh họ chiếm đoạt gia tài. Việc này Thủ Huồn được mười nén vàng và mười nén bạc, một trăm quan tiền. Cũng năm đó, hắn làm cho ông Ngô Lai ở thôn Bình-ca bị hai mươi năm tội đồ chỉ vì trong nhà có cái áo vải vàng, để đoạt không của ông ta mười hai mẫu ruộng. Năm…

Thủ Huồn tái mặt, không ngờ mỗi một cái cất tay động chân của mình trên kia, dưới này đều rõ mồn một. Hắn ngắt lời đánh trống lảng.

– Thế vợ hắn có cùng đeo gông không hở ông?

– Ồ! Ai làm người ấy chịu chứ! Vợ hắn nghe đâu là người tốt đã xuống đây rồi.

Thủ Huồn lại hỏi gặng:

– Ví thử hắn muốn hối cải thì phải làm thế nào?

Lão cai ngục hạ sách xuống bàn, đáp:

– Đã vay thì phải trả! Nếu hắn muốn thì phải đem những thứ của cải cướp giật được đó bố thí và cúng lễ cho hết đi.

Từ biệt lão cai ngục và những hình cụ khủng khiếp, Thủ Huồn không còn bụng dạ nào để đi xem nơi khác nữa. Vợ thấy chồng đòi về, lại đưa chồng ra khỏi hoàng cung của Diêm vương và ra khỏi mấy dặm đường tối tăm mù mịt. Lúc sắp chia tay hắn bảo vợ:

– Tôi về trang trải công nợ có lẽ ba năm nữa tôi lại xuống. Mình nhớ lên chợ đón nghe!

Về tới Gia-định. Thủ Huồn mạnh tay bố thí. Hắn tập hợp những người nghèo khó trong vùng lại, phát cho họ tiền, lúa. Hắn đem ruộng đất của mình cúng cho làng, cho chùa, chia cho họ hàng thôn xóm. Hắn mời hầu hết sư, sãi các chùa gần vùng tới nhà mình cúng đơm, tốn kém kể tiền vạn. Người ta lấy làm lạ không hiểu tại sao một tay riết róng như hắn bây giờ trở nên hào phóng một cách lạ thường. Ai xin gì được nấy. Có những người trước chửi hắn bây giờ lại đâm ra thương hại hắn. Nhiều người bảo nhau: – “Thứ của vô nhân bất nghĩa ấy không trước thì sau thể nào cũng đội nón ra đi mà thôi!” hay là: – “Có lẽ hắn không con, biết để của cũng chả làm gì nên tự làm cho vợi bớt”. Thủ Huồn có nghe rất nhiều lời đàm tiếu về mình, nhưng hắn chẳng nói gì sất, cứ việc quẳng của không tiếc tay.

Cứ như thế sau ba năm, Thủ Huồn tính ra đã phá tán được ba phần tư cơ nghiệp. Nhớ lại lời hẹn, hắn lại khăn gói ra Bắc tìm đến chợ Mạnh-ma. Ở đây, hắn dỗ khéo được vợ cho hắn xuống thăm cõi âm một lần nữa.

Khi trở lại nhà ngục. Thủ Huồn thấy quang cảnh vẫn như cũ. Lão cai ngục vẫn là lão cai ngục ba năm về trước. Cách bố trí y hệt như xưa: cũng có nơi mổ bụng, nơi móc mắt, cắt tay: v.v… Duy chỗ để gông thì có ít nhiều thay đổi. Bên cạnh những cái vẫn còn nguyên hình như xưa thì lại có những cái trước bé nay đã lớn lên, có cái trước lớn, nay nhỏ hẳn đi. Đặc biệt cái gông mà Thủ Huồn chú ý nhất thì bây giờ đã rút ngắn lại tuy vẫn còn to và dài hơn các thứ gông thường một tý. Hắn lân la hỏi lão cai ngục:

– Cái gông để ở nơi này trước kia tôi nhớ hình như to lắm thì phải.

– Đúng đấy! Lão đáp. Có lẽ gần đây ở trên dương thế thằng cha ấy đã biết chuộc lỗi nên nó đã nhỏ lại. Nếu hắn gắng hơn nữa, thì rồi sẽ có phúc lớn.

Thủ Huồn lại lên đất, trở về Gia-định. Hắn lại làm tiếp công việc bố thí và cúng dàng. Lần này hắn bán hết tất cả những gì còn sót lại, kể cả nhà của của mình. Hắn đến Biên-hòa dựng một ngôi chùa lớn để cúng Phật. Hắn xuôi sông Đồng-nai để làm một việc nghĩa cuối cùng. Hồi đó ở ngã ba sông Đồng-nai và sông Gia-định việc đi lại rất bất tiện. Cũng vì thế mà bên kia sông Đồng-nai người ta còn ngần ngại chưa dám di cư sang để sinh cơ lập nghiệp.

Thủ Huồn liền quyết định ở lại đây. Hắn kết một cái bè lớn, trên bè có nhà ở, có đủ chỗ nghỉ, có sẵn nồi niêu, đồ dùng và tiền gạo. Những thứ ấy hắn dùng để tiếp rước những người qua lại, nhất là những người nghèo khó. Hắn cho họ trú ngụ tại bè của mình kẻ năm ba ngày, người một đôi tháng mà không lấy tiền. Hắn làm công việc đó mãi cho đến ngày xuống âm phủ thật sự.

Sau đó khá lâu, có lần một ông vua tên là Đạo Quang bên Trung-quốc lúc mới lên ngôi có cho sứ sang Việt-nam hỏi lai lịch một người ở Gia-định. Số là khi nhà vua mới sinh, người ta thấy trong lòng bàn tay vua có mấy chữ: “Đại-nam, Gia-định, Thủ Hoằng”, nên nhà vua cần biết rõ gốc gác Thủ Hoằng là ai. Sau khi sứ giả cho biết rõ lai lịch Thủ Huồn, vua Trung-quốc có cúng vào ngôi chùa Biên-hòa ba pho tượng vàng. Do việc đó người ta bảo Thủ Huồn nhờ thành thực hối lỗi, chẳng những làm tiêu mất cái gông chờ hắn ở coi âm, mà còn được Diêm vương cho đi đầu thai làm vua Trung-quốc.

Ngày nay, một ngôi chùa ở Biên-hòa còn mang tên là chùa Thủ Huồn: chỗ ngã ba sông Đồng-nai và Gia-định còn gọi là sông Nhà-bè để kỷ niệm lòng tốt của Thủ Huồn đối với khách hộ hành Nam Bắc qua con sông đó.

9. Sự tích đình làng Đa Hòa

Ngày xưa ở làng Đa-hòa có một ông thầy phù thủy cao tay, tên là Dọng. Không những ông có nhiều phép lạ mà còn có lòng thương người. Từ lâu, ông được bầu làm hương trưởng, và được dân trong vùng kính phục.

Hồi ấy làng Đa-hòa gặp mấy năm hạn hán, mùa mất liên tiếp, dân tình cơ cực. Nhiều người phải đem vườn ruộng đi cầm đi bán. Nhưng giá gạo ngày một cao, ruộng ngày một hạ. Cuối cùng ruộng đất của dân đều vào tay mấy tên trọc phú. Thấy vậy, ông Dọng nghĩ cách để cứu giúp người nghèo. Ông bảo bọn nhà giàu:

– Thần thánh phù hộ cho các người, bao nhiêu ruộng nhà nghèo đều lấy về ban cho một số người có của. Đó là lộc thánh. Nhưng nếu không biết tạ ơn thì rồi có lúc sẽ bị thánh phạt đấy.

Biết ông là người có thể thông được với thần, bọn nhà giàu lo sợ, hỏi ông:

– Muốn tạ ơn thánh thì phải làm gì?

Ông Dọng đáp:

– Làng ta vốn không có đình. Thánh ngự về không có cái mà ở. Vậy phải mau mau dựng một cái đình.

– Dựng đình tốn kém lắm sao có thể làm nổi.

– Nhà giàu bỏ của, nhà nghèo bỏ công, mỗi người vun đắp một tý thì việc lớn không mấy chốc mà thành. Nếu được như vậy, tôi tuy bất tài cũng xin đứng ra đốc công.

Bọn nhà giàu nghe lời ông. Chúng bèn họp làng quyết định dựng đình: những người có của thì quyên tiền, còn người nghèo thì gánh đất gánh cát. Ông Dọng thân hành thu góp tiền nong và làm người đôn đốc. Ông bảo bọn trọc phú:

– Thần thánh đều có con mắt, “sởi lởi trời gởi của cho, quăn co trời gò của lại”. Hằng tâm hằng sản ai bỏ nhiều thì được phúc nhiều.

Chúng nghe nói đều thi nhau quyên những món tiền lớn và góp lại trao cho ông. Nhưng thu được bao nhiêu ông phân phát cho dân đói bấy nhiêu. Ông bảo họ gánh đất đắp thành nền đình, xung quanh trồng bờ giậu cho kín, ở sân đình trồng các thứ cây cối kể cả các loại cây dây như cây bìm hìm, v.v… Đoạn, ông hẹn với bọn trọc phú ba tháng nữa đình sẽ hoàn thành. Bọn trọc phú thấy ông phân phát hết tiền thì sinh nghi, nhưng thấy ông nói cứng, thì lại nửa tin, nửa ngờ. Vả xưa nay ông chưa từng thất hẹn với ai, nên cũng không dám hỏi.

Thời gian trôi qua, nền đình đã đắp xong, tiền quyên góp đã nhiều, hạn cũng sắp hết mà chưa thấy động tĩnh gì cả. Thấy gỗ lạt không có một que, gạch ngói chẳng có nửa mảnh, bọn nhà giàu đến thúc ông Dọng. Ông chỉ đáp gọn lỏn: -“Đình khắc có đình! Ai sinh sinh sự sẽ sự sự sinh!”.

Một số phú thương ở làng bên cạnh là làng Vạn-phước trước đây cũng bỏ những số tiền lớn quyên vào công việc làm đình ở Đa-hòa để mong được thánh ban lộc, nay đợi mãi không thấy đình, chúng lấy làm nóng ruột, liền đến vặn ông Dọng:

– Chúng tao qua đây buôn bán thấy việc phúc đức, nên cũng vón tay vào để vo tròn quả phúc. Không ngờ mày “nhũng lạm” đi mất cả rồi, chỉ ngồi trơ thổ địa nói phét.

Nói rồi chúng xúm lại thượng cẳng chân hạ cẳng tay, đánh ông sưng cả mặt mũi. Ông Dọng đáp:

– Đình khắc có đình! Nhưng đánh người là có tội, đánh bậc “cao niên” tội lại càng nặng. Kẻ nào đánh ta thì phải đền tội. Ta không nói chơi đâu!

Đoạn ông mang gậy nón đi sang làng Vạn-phước để bắt đền. Tới nơi, ông vào đình Vạn-phước, ngả gậy nón ngay ở gian giữa mà ngồi.

Rồi ông cởi áo giở chỗ bị đánh phân vua với những người dân Vạn-phước có mặt:

– Các ông các bà xem. Đánh người không phải là chuyện chơi. Bọn những tên Giáp tên Ất ở làng này vô cớ gây sự đánh ta. Kẻ nào sinh sinh sự thì sự sự sinh! Sẽ phải đền đình!

Nói thế rồi ông cứ ngồi ở giữa gian vót đũa và xe chỉ. Có ai hỏi làm thế để làm gì thì ông trả lời “đính nèo” (tức nói lái là néo đình).

Bọn lý hào làng Vạn-phước được bọn phú thương xúi giục, ra đình đuổi ông Dọng đi. Ông không đi, nói:

– Các ông phải trả lời cho tôi cái chuyện người làng này, những tên Giáp tên Ất, tự dưng vô cớ đánh tôi. Tôi được rửa nhục rồi thì sẽ đi ngay!

Chúng hỏi:

– Ông muốn rửa nhục thế nào?

– Kẻ nào đánh tôi thì phải làm đình để đền.

– Không làm đình thì sao?

– Không làm đình thì vay tạm đình này rồi sẽ đền sau.

Cho đòi hỏi của ông là vô lý nên chúng không chịu xử. Cuối cùng chúng lấy thế đông đến đuổi ông đi. Ông đợi cho họ tập hợp đông đủ, rồi mới thủng thỉnh nói:

– Bây giờ tôi sẽ cắm cái gậy này xuống trước sân đình. Nếu làng ta nhổ được gậy lên thì tôi xin đi ngay.

– Nếu không nhổ được thì sao?

– Thì mất đình.

Họ bảo “được”. Hai bên làm giấy ký kết.

Rồi đó, ông Dọng ung dung bước ra sân cầm cây gậy trúc của mình cắm phập xuống sân đình, và nói: – “Nhổ đi! Cho các người nhổ đi!”.

Vừa thấy thế, một tên hào cường trẻ tuổi xắp tay áo lên hùng hổ:

– Cần gì phải nhiều người mất công. Xin mời các quan viên hãy ngồi nghỉ, chỉ một mình tôi nhổ cũng đủ. Này này, lão già hãy trông đây, rồi có đường có nẻo cút ngay!

Và hắn chạy tới, dùng một bàn tay nắm lấy cây gậy để nhổ, nhưng không được. Sau đó, hắn lôi bằng cả hai tay, nhưng cũng không nổi. Sau, hắn ôm cả người vào rán sức lắc mà cũng không chuyển. Mồ hôi nhể nhại, hắn gọi những người xung quanh vào giúp sức. Ông Dọng nói:

– Ta thách tất cả bọn bất nhân chúng mày!

Mọi người liền xúm xít lại quanh tên hào cường, một người, hai người tới hàng chục người; nhưng lạ thay dù có đến hàng chục bàn tay, chiếc gậy vẫn không nhúc nhích. Bọn lý hào mệt nhoài. Chúng đánh mõ cho trai làng đổ ra buộc thừng mà kéo, song cũng chẳng ăn thua. Cuối cùng, chúng bàn buộc thừng vào cổ trâu, ra roi cho trâu kéo, tuy vậy chúng chỉ làm một công việc vô ích: mọi dây thừng đều đứt, còn gậy của ông vẫn vững như trời trồng.

Ông Dọng phá lên cười:

– Thế là thua cuộc rồi nhé!

Rồi ngoảnh mặt về phía dân, ông nói:

– Xin đồng dân nhớ cho, nếu làng ta có mất đình, chẳng phải tại tôi. Đó là do bọn tên Giáp tên Ất nó sinh sự sự sinh. Bắt chúng nó làm lại đình khác để đền!

Nửa đêm hôm ấy, trời bồng nổi phong ba, sẩm chớp đùng đùng, gió rít từng cơn rất dữ. Giữa lúc ấy người ta nghe xen vào những tiếng như tiếng kèn trống cùng những tiếng truyền lệnh của ông Dọng: – “Nâng lên!… Hạ xuống…Xích về bên trái…”. Đình làng Vạn-phước thốt nhiên bay bổng lên không trung cùng với cả những hòn đá tảng kê chân cột; đình vượt qua các lũy tre rồi tiến đến bờ sông lối sang làng Đa-hòa.

Ông Dọng đã đợi ở đấy từ lâu. Ông ngồi lên chiếc nón tu lờ bơi sang sông theo đình để điều khiển. Đình vượt qua sông là là mặt nước. Sau đó đình bay bổng về Đa-hòa rồi hạ xuống một cách êm thấm trên cái nền mới đắp. Lại có những tiếng hô của ông Dọng và tiếng ồn ào dội lên ở đây, được một chốc thì vắng lặng như tờ. Soát lại mọi chỗ, ông Dọng chỉ thấy có một viên đá tảng bị rơi lúc vượt sông, còn mọi thứ đều không hề suy suyển. Cuộc chuyển đình hoàn thành một cách chu đáo.

Sáng hôm sau, dân làng Vạn-phước nhìn đến đình thì thấy chỉ còn một cái nền trơ trọi. Họ đến nhà của mấy tên phú thương đòi đình.

Mấy tên này lo lắng, bèn họp bọn hào lý bắt đệ đơn lên quan tố cáo ông Dọng ăn trộm đình. Quan huyện đòi ông Dọng lên hỏi:

– Sao mày dùng phép ma thuật quỷ ăn trộm đình của người?

Ông Dọng làm bộ ngơ ngác. Quan lại nói:

– Làng Vạn-phước tố cáo mày ăn trộm đình về cho làng Đa-hòa. Có thế nào cứ thực tường khai để khỏi phải tra khảo.

– Bẩm quan, ông Dọng nói, chuyện bên nguyên đưa ra “thậm ư vô lý”. Vậy xin phép hỏi, đình mất từ bao lâu?

– Mới hôm kia chứ đâu?

Ông Dọng cười ha hả:

– Quan lớn nhân danh “dân chi phụ mẫu” phụ họa với bọn không đặt làm có, mà cũng nghe được.

Quan huyện đập bàn quát lên:

– Lính đâu, hãy đóng gông tên này lại cho ta.

Ông Dọng thong thả đáp:

– Xin quan lớn bớt cơn thịnh nộ cho kẻ hạ dân hỏi bên nguyên: Nền đình làng Vạn-phước có dấu tích gì để biết đình mất đã bao lâu?

Bọn lý hào Vạn-phước nói:

– Cải đã lên lá.

Ông Dọng cười:

– Bẩm quan, một bên mất đình chỉ nói cải vừa trổ lá, còn đình làng tôi thì bìm bìm đã mọc lên tận nóc. Xin mời quan về khám hư thực.

Quan về khám đình làng Đa-hòa thì quả thấy xung quanh đình, bờ giậu đã mọc xanh kín, ở sân đình cây cối um tùm: đặc biệt là dây bìm bìm đã leo lên tới nóc. Thấy vậy, quan đành xử cho ông thắng cuộc.

Bọn hào lý làng Vạn-phước chịu thua kiện, cắm cổ ra về. Sau đó, do dân làng buộc tội, mấy tên phú thương đã đánh ông Dọng ngày xưa tức là bọn tên Giáp tên Ất phải ngửa cổ đền cho làng Vạn-phước một cái đình khác.

Người ta nói đình làng Đa-hòa cho đến nay vẫn còn, một cột cái của nó vẫn để lơ lửng vì thiếu mất một hòn đá tảng lúc vượt sông.

10. Con thỏ và con hổ

Hổ bị thỏ chơi một mẻ mất mặt, thề từ nay không đội trời chung với thỏ. Một hôm, hổ đi chơi gặp thỏ đang trèo cây ăn mật ong. Hổ đứng đón dưới gốc, trừng mắt bảo thỏ:

– Mày đừng có hòng chạy nữa nhé! Tao tìm mày lâu lắm rồi. Muốn tốt xuống đây nộp mạng!

Thỏ bèn làm kế hoãn binh:

– Ông làm ơn cho tôi đánh một hồi trống rồi tôi xin xuống để ông bắt tội.

– Được, hổ trả lời.

Thỏ giơ tay giả làm điệu bộ đánh trống liên hồi vào tổ ong. Bấy giờ tiếng ong bay vù vù, văng vẳng có âm thanh phát ra làm cho hổ nghe tưởng là trống thật. Thích quá, hổ bảo thỏ:

– Mày cho tao đánh với!

– Ông đánh cũng được thôi – thỏ đáp – nhưng có điều, ông mà đánh thì tôi sẽ điếc tai long óc mất. Vậy ông làm ơn để tôi đi thật xa đây đã, bao giờ không nghe tiếng hú của tôi nữa thì hãy đánh.

Thế là hổ ta quên mất việc trị tội thỏ, để cho thỏ nhảy xuống chạy trốn mất. Khi không còn nghe tiếng hú, hổ mới trèo lên cây, đánh mạnh vào tổ ong. Tổ ong vỡ ra, cả bầy ong xông tới đốt cho hổ tối mày tối mặt. Hổ kinh hoàng sẩy chân rơi xuống đất đau điếng cả người. Nhưng ong vẫn không tha, hổ chạy đến đâu chúng đuổi theo đến đó, đốt cho mặt sưng húp mới chịu thôi. Hổ biết là mắc mưu thỏ, giận bầm gan tím ruột.

Hôm khác hổ tình cờ gặp lại thỏ đang đứng bên bụi tre. Hổ chặn đường hét:

– Mày làm ông khốn nạn bao nhiêu phen rồi? Thôi, đứng đó cho ông trị tội.

Thỏ nghĩ ra được một kế khác, nói:

– Ông hãy cho tôi gẩy một khúc đàn cha ông nghe đã rồi tôi sẽ để ông bắt tội. Tôi không dám trốn đâu mà ông lo.

Hổ bằng lòng. Thỏ liền nhảy lên bụi tre giả làm như cách gảy đàn. Kỳ thực, lúc nào gió thổi hai cây tre sắp cọ vào nhau thì nó rút chân ra, lúc hai cây tre rời nhau thì nó đút chân vào.

Tiếng tre cót két làm vui tai hổ, cho nên hổ lại bảo thỏ:

– Mày để cho tao gảy một lúc chơi.

Thỏ nói:

– Ông cứ gảy tùy thích, những chơi cho khéo kẻo hỏng mất đàn của tôi đi!

– Mày dạy tao cách gảy thế nào đã.

– Tay ông to quá đánh hỏng đàn mất. Vậy ông hãy cứ đánh bằng đuôi thì tốt hơn. Đây này! Cứ lúc nào hai cây tre rời nhau thì ông cho đuôi vào giữa, thế là nó bật thành tiếng nghe rất thú. Nhưng ông hãy chờ cho tôi đi xa đây đã. Nói rồi, thỏ nhảy xuống, ba chân bốn cẳng chạy mất. Còn hổ làm đúng như lời của thỏ, bị tre nghiến đứt mất một khúc đuôi. Hổ đau đớn không thể nói hết, gầm rống vang trời, trông bộ dạng rất thiểu não. Hắn quyết bắt cho được thỏ xé xác ra mới hả dạ.

Bẵng đi một ít lâu, hổ lại gặp thỏ. Nhưng lần này đang lúc thỏ vô ý sa xuống một cái hố sâu không làm sao lên được. Thấy mặt hổ, thỏ vội gọi:

– Trời ơi! Ông còn chưa biết ư? Mau lên không thì nguy khốn đến nơi rồi!

Hổ nghe nói thế, cuống lên hỏi lại thỏ:

– Thế nào? Nói mau!

– Ông ơi – thỏ đáp – ông có thấy gió thổi ào ào, cây cối rung chuyển đó không, đó là dấu hiệu trời sắp sập rồi, chỉ còn một cách nhảy xuống đây mới có thể thoát được mà thôi!

– Thật thế à? Cho tao xuống với nhé!

– Ông xuống ngay đi! Ở lại trên đó là chết bẹp xác.

Thế là hổ không suy nghĩ gì nữa nhảy ngay xuống hố sâu, trong lòng lo ngay ngáy không còn nghĩ gì đến chuyện trị tội thỏ nữa. Thấy thế, thỏ tìm cách chọc hổ chơi. Bèn dùng tay cù vào nách hổ. Hổ không chịu được lối đùa nghịch của thỏ, mắng:

– Yên. Mày nghịch như quỷ ấy! Nếu còn như thế nữa tao sẽ không đánh mày mà quẳng mày lên trên kia, cho trời sập đè bẹp xác.

Thỏ chỉ yên lặng được một chốc rồi lại lẻn tới cù hổ. Tức mình, hổ nắm lấy hai chân thỏ vứt lên miệng hố. Thỏ đắc mưu, chạy một mạch vào làng báo cho mấy ông thợ săn biết. Lập tức họ vác cung tên giáo mác đến hố giết chết hổ.

11. Sự tích chim năm trâu sáu cột và chim bắt cô trói cột

Ngày xưa, có một bác lực điền tên là Ba ở trong một xóm dưới chân núi. Bác không có ruộng phải làm rẽ năm sào của một phú ông ở làng bên cạnh. Phú ông là tay giàu có nhất tổng: ruộng đất trâu bò ở rải rác các thôn xóm nhiều không đếm xiết. Thấy bác là tá điền cũ, tính nết thật thà chăm chỉ, lúc nào cũng nộp thóc sòng phẳng, phú ông có lòng tin giao cho bác nuôi trâu. Từ đấy công việc của bác Ba thêm bận rộn. Ngày ngày bác phải chăn một bầy trâu của phú ông từ độ ấy sinh nở tổng cộng đã được năm con.

Tự nhiên một ngày nọ, phú ông lăn ra chết. Hắn chết giữa lúc tuổi còn khá trẻ. Phú ông chưa có con trai, chỉ có mỗi một cô gái nên bao nhiêu ruộng đất trâu bò đều về tay cô. Mà ruộng đất trâu bò của phú ông giao cho các tá điền nhiều thứ linh tinh phức tạp, có thứ đã làm giấy tờ phân minh nhưng cũng có thứ vì cái chết đột ngột xảy đến nên chưa có giấy tờ gì cả.

Cô con gái phú ông rất giống tính cha, lại là một người có mánh khóe vặt. Không bao giờ chịu để mất không cái gì cho người ngoài dù là những vật nhỏ mọn, Sau khi làm ma bố xong, cô gái mới bắt đầu đi kiểm soát một lượt gia sản của bố để lại.

Cô đến nhà bác Ba vào một buổi chiều. Lúc đó bác ta còn đi chăn trâu chưa về. Nhà này có nuôi trâu, cô biết, nhưng tất cả số trâu nuôi trâu đẻ được mấy con và lớn bé như thế nào thì hãy còn mập mờ. Trừ phú ông ra chả ai biết rõ. Mấy người đầy tớ chỉ nhớ mang máng cả mẹ đẻ con đẻ đâu năm sáu con.

Tục ở đây nuôi trâu không có chuồng. Người ta đóng ở góc sân những cái cột, tối về buộc mỗi con vào một cột. Thoạt vừa đến cô gái đếm ngay số cột được sáu cái: – “Sáu cột vị chi là sáu trâu” cô tự bảo thế. Cô không biết rằng trước đây một hôm vì có một cột gần gãy nên bác Ba phải đóng một cột khác, chưa kịp nhổ cái kia đi.

Lúc bác lực điền đánh trâu về, cô gái đếm đi đếm lại chỉ có năm con, bèn ngẫm nghĩ: – “Quái thật! Sao chỉ có năm. Có lẽ vì không có giấy tờ, nên nghe tin cha chết lão này đã bán trộm một con”. Bèn nói to:

– Này bác Ba. Còn một con nữa đâu?

Bác lực điền ngạc nhiên:

– Còn trâu nào nữa, tôi nuôi của cụ cả thảy chỉ có năm con.

Cô gái lý sự:

– Năm trâu sao lại sáu cột. Có lẽ bác đánh lạc mất một con trong rừng chứ gì?

Bác Ba đem việc cột gãy ra phân trần, nhưng cô nào đâu có nghe:

– Thôi bác chịu khó đi tìm cho tôi đi. Năm trâu sao lại có sáu cột?

Thấy cô ta lẩm bẩm mãi mấy tiếng “năm trâu sáu cột“, bác lực điền nổi xung:

– Chỉ có bắt cô trói vào cột này thì họa chăng mới thành sáu được!

Cô gái phú ông không phải là tay vừa, nhảy lên xỉa xói bác Ba. Bác Ba bực mình bỏ đi vào rừng. Cô tiếp theo chân bác. Rồi đó hai câu “năm trâu sáu cột” và “bắt cô trói cột” trở thành lời đối đáp của hai bên.

Cả bác Ba và cô gái về sau đều hóa thành chim. Hai con chim đó xuất hiện ở vùng rừng núi Thái-nguyên, Bắc-cạn là vùng xảy ra câu chuyện. Hai con chim kiếm ăn từ nhá nhem cho đến mờ sáng: một con đàng này núi, một con đàng kia núi, một con kêu: “Năm trâu sáu cột“, một con đáp: “Bắt cô trói cột”[1]. Người ta nhận tiếng kêu của từng con một mà đặt tên.

[1]. Có người cắt nghĩa tiếng kêu của loài chim đó là “Bắc-quang Bắc-mục” hay “Hà-giang nước độc” nhưng không kể thành chuyện.

12. Sự tích con mối

Một chàng trẻ tuổi nhà giàu, ao ước một người vợ đẹp như tiên. Cha mẹ hỏi cho đám nào hắn cũng không vừa ý. Hắn đáp: – “Con chỉ muốn lấy một người đẹp như tiên mà thôi “. Cho đến mấy năm sau cha mẹ lần lượt qua đời, hắn ta vẫn chưa có vợ.

Cái khó tính của anh chàng truyền đến tai Ngọc hoàng. Thương hại hắn, Ngọc hoàng sai một nàng tiên xuống, bảo.

– “Con hãy xuống với nó thử xem anh ta có biết người biết của không. Nếu anh ta không thấy được cái đẹp chính đáng thì hãy cho anh ta một bài học”.

Thế là ngày ấy nhà hắn tự nhiên có một người con gái đến xin làm công việc của một người thị tỳ. Cô gái này mặt mũi tầm thường nhưng mọi việc đều thông thạo tính nết rất tốt. Nàng khéo tay đến nỗi mỗi bữa cơm không có tay nàng nấu nướng là hắn ta ăn không ngon. Gặp ngày giỗ, hắn than thở với nàng rằng không biết nhờ ai làm cỗ bàn bánh trái cho thật ngon để trước cúng cha mẹ, sau đãi các quan khách. Nàng hứa sẽ xin cố gắng làm công việc đó. Quả nhiên cả khách lẫn chủ đều ngạc nhiên vì họ được dự một bữa cỗ ngon và lạ chưa từng có. Họ xúm lại khen ngợi nàng. Người chủ trẻ tuổi bắt đầu để ý tới nàng nhưng khi nhìn thấy nhan sắc, hắn lại lảng ngay.

Ít lâu sau đó, anh chàng sắm sửa thuyền bè để di tìm một người vợ đẹp theo ý muốn. Cô gái ở nhà hóa thành một người xinh đẹp tuyệt trần. Khi thuyền của chủ trở về, những người đầy tớ vội báo việc ấy cho chủ biết. Người chủ vào nhà rất vừa ý vì diện mạo có một không hai của người thị tỳ. Hắn sán lại ngồi gần nhưng nàng bước lùi ra xa. Hắn rối rít xin lỗi, nói là mình đui mù không biết có một vị “tuyệt thế giai nhân” bấy lâu ở trong nhà, và xin lấy nàng làm vợ. Nàng vẫn không đáp. Sau cùng hắn đánh bạo chạy lại ôm nàng.

Hắn ôm hụt vì nàng đã bay lên trời và nói cho hắn biết mình là tiên, nay đã hết hạn ở trần gian phải về thượng giới. Hắn chỉ còn giật được có một chéo áo của nàng.

Từ đó, hắn tiếc mãi và sau hóa thành con mối luôn luôn chắt lưỡi tiếc vì bao nhiêu ngày ở với tiên mà không biết hưởng.

13. Lỗ Ban học nghề

Sông Thanh Thủy chảy vòng về phía Đông thành một vụng lớn, trong vụng có một dãy nhà đất gọi là Lỗ Gia Loan. Ở đây có một ông già họ Lỗ làm nghề thợ mộc. Ông đã năm mươi tám tuổi, đi học nghề, theo phường từ năm mười tám, tính ra đã làm nghề mộc bốn mươi năm ròng.

Ông thợ mộc già cần cù làm lụng suốt đời, dựng được hai dãy nhà đất, một dãy ở phía Nam, một dãy ở phía Bắc. Tính tình ông cũng hơi kỳ lạ, làm nghề mộc suốt đời mà chẳng nhận qua một học trò. Có ai đến nhận ông làm thầy, xin theo để học nghề, ông đều thoái thác nói rằng: “Đi theo tôi thì học được nghề nghiệp gì, anh chẳng xem dãy nhà tôi làm kia đã ngả nghiêng xiêu vẹo, hòm tủ thì méo mó xù xì đó sao”. Mọi người đều biết tính tình kỳ quặc của ông, nên ai muốn học nghề cũng chẳng bao giờ đến học ông.

Ông thợ mộc già suốt đời chưa vừa ý với tài nghệ của mình. Ông không dạy người khác mà ngay con cái trong nhà ông cũng không dạy. Suốt đời, ông ăn tiêu dè sẻn, tần tiện từng đồng, như vậy cũng đã dành dụm được ba trăm lạng bạc và ba con ngựa tốt, chờ khi các con khôn lớn sẽ chia cho chúng để chúng đi tìm thầy học nghề.

Ông thợ mộc già có ba người con trai. Con lớn là Lỗ Thuyên, mười tám tuổi; con thứ hai là Lỗ Tân, mười lăm tuổi; con nhỏ nhất là Lỗ Ban, mười hai tuổi. Lỗ Thuyên và Lỗ Tân đều là những kẻ lười nhác ngồi không ăn sẵn, từ lúc sinh ra cho đến lúc lớn, chiếc rìu đặt nghiêng không biết dựng lại, chiếc búa rơi không biết nhặt lên, cưa đục chẳng bao giờ động tay đến. Cha mẹ đều không thích hai anh lớn. Lỗ Ban từ nhỏ đã cần cù hiếu học, thường theo sát bên cha, giúp cha căng dây, làm các việc vặt, học cách vác rìu, cầm búa, cưa cắt cây gỗ của cha.

Một hôm tới bữa ăn trưa, bà mẹ chợt nhớ ra Lỗ Ban đã quá nửa ngày không ở nhà, bà lo lắng vội chạy ra ngoài đi tìm, tìm một hồi lâu mới thấy Lỗ Ban ở trước một ngôi nhà mới, đang ngồi ở một bên, hai tay chống má, ngây ra nhìn mấy người thợ mộc làm cánh cửa. Sáu bảy tuổi Lỗ Ban đã thích cầm rìu cầm cưa, khúc gỗ tròn đã đẽo được thành vuông, tấm gỗ dày đã cưa thành những phiến mỏng. Đến năm mười tuổi, thì mọi thứ đồ nghề Lỗ Ban đều dùng được cả, chiếc rìu chiếc đục luôn ở trên tay.

Lỗ Ban không lúc nào chịu rảnh tay, đóng rất nhiều hòm tủ, ghế con xe nhỏ, xếp đầy trong nhà ngoài hiên như một cửa hàng đồ gỗ nhỏ. Thấy mẹ ngồi trên giường lò kéo sợi rất tốn sức, Lỗ Ban liền lên núi Nam chặt một cây liễu về làm ghế cho mẹ: “Mẹ ơi, mẹ hãy ngồi trên ghế này mà kéo sa cho khỏi đau lưng”. Thấy giỏ kim chỉ của chị không có chỗ để, Lỗ Ban bèn lên núi Bắc chặt một cây du, đóng cho chị một chiếc rương gỗ: “Chị ơi, chị hãy đặt giỏ khâu vào đây cho khỏi lẫn kim vương chỉ”. Nhưng khi anh cả, anh hai bảo Lỗ Ban làm một chút đồ gỗ gì thì Lỗ Ban nói: “Có gỗ, có rìu, tự mình lại không làm được hay sao?”.

Cha mẹ và chị gái rất yêu quý Lỗ Ban. Ba anh em trai mỗi ngày một khôn lớn. Một hôm, người cha gọi con cả đến trước mặt nói:

– Con ơi, con đã lớn rồi, không thể chỉ dựa vào cha mẹ mà sống. “Nghé lên ba, trai mười tám” đang lúc nhiều sức lực này, con hãy đi học chút nghề nghiệp gì, hay là học nghề mộc đi, nhưng cha không dạy cho con được, cha vụng tay, nghề không giỏi, xưa nay chưa hề nhận một người học trò nào. Con hãy mang theo một trăm lạng bạc, cưỡi con ngựa lên núi Chung Nam tìm học ông tổ nghề mộc đang ẩn cư ở đó!

Ông già chớp chớp mắt nhìn Lỗ Thuyên. Quen lười nhác, Lỗ Thuyên nhăn nhó mặt mày chẳng nói chẳng rằng nhận số bạc cưỡi ngựa, lắc lư đi thẳng.

Ra khỏi nhà, Lỗ Thuyên nghĩ thầm: “Núi Chung Nam cách đây mười vạn tám nghìn dặm, đi đâu tìm thầy mà chẳng được”.

Hắn cưỡi ngựa, tìm đông tìm tây ba năm ròng, tiền bạc tiêu hết, ngựa cũng bán, trần trụi quay về nhà. Ông thợ mộc già chẳng nói nửa lời đuổi Lỗ Thuyên ra khỏi nhà. Ông lại gọi Lỗ Tân tới:

– Con ơi, con cũng đã mười tám rồi. Con hãy mang một trăm lạng bạc, cưỡi con ngựa hay, lên núi Chung Nam tìm thầy mà học! Thế nào cũng đừng có bắt chước như anh con.

Ông già chớp chớp mắt nhìn Lỗ Tân. Lỗ Tân ngoác mồm ra khóc thút thít, nhận số bạc rồi uể oải lên ngựa ra đi.

Lỗ Tân đi được một đêm một ngày, hỏi thăm thấy nói núi Chung Nam còn cách đây hơn một vạn dặm đường, hắn nản lòng. Mặc ngựa đưa đi lang thang suốt ba năm ròng, tiêu hết số bạc, ngựa cũng bán mất, Lỗ Tân khoác chiếc bao tải quay về. Ông thợ mộc già càng giận dữ, cầm luôn cây gậy bằng gỗ du đánh cho Lỗ Tân một trận rồi đuổi đi.

Ông già gọi Lỗ Ban lại, ứa nước mắt, xoa đầu chàng, nói:

– Con ơi, hai anh con không có chút tương lai gì, cha đã đuổi đi rồi. Niềm mong ước suốt đời của cha lần này đều gửi gắm ở nơi con. Con đừng để cho cõi lòng của cha phải chịu băng giá, chớ có làm như hai anh con…

Không chờ cha nói hết, Lỗ Ban đã tiếp lời:

– Cha ơi, cha cứ yên lòng! Con đã sắp sẵn tiền bạc, sửa soạn ngựa xong xuôi, chỉ chờ cha cho phép là ra đi. Không tìm được thầy, không học được nghề, con quyết không trở về gặp lại cha nữa!

Lỗ Ban từ biệt cha mẹ, lên ngựa phi thẳng về phía Tây. Ông thợ mộc già nhìn theo hút bóng con, chùi nước mắt, mồm lẩm nhẩm: “Chỉ có Lỗ Ban là khá…”.

Lỗ Ban vung roi thúc ngựa, người ngựa mải miết phi nhanh, một ngày đã đi được hơn ba trăm dặm đường. Lỗ Ban đi được mười ngày, vượt qua ba nghìn dặm đường, đã đi tới tận cùng con đường cái lớn quang đãng. Trước mặt là một trái núi lớn. Núi cao dốc đứng, đường quanh co khúc khuỷu mọc đầy gai góc và đá tai mèo. Lỗ Ban buồn rầu gò cương dừng lại. Giữa lúc đó chợt có một ông tiều phu già từ chân núi đi ra. Lỗ Ban nhảy xuống, dắt ngựa bước lên, chấp tay cúi chào:

– Thưa cụ, núi Chung Nam còn cách đây bao xa?

Ông già tiểu phu vuốt râu, chậm rãi nói:

– Hà, đi thẳng thì còn sáu nghìn dặm, đi đường vòng thì mất một vạn hai nghìn dặm, nếu muốn tìm đường ngắn nhất, thì phải vượt qua được ngọn núi cao này!

Lỗ Ban lại hỏi:

– Thưa cụ, cụ có cách nào giúp cháu vượt qua được trái núi lớn này không?

Cụ già lắc đầu:

– Núi cao như thế này, leo một năm cũng không tới được lưng chừng núi.

Lỗ Ban nói:

– Một năm leo không qua thì leo hai năm, hai năm leo không qua thì leo ba năm, không leo tới đỉnh núi thì có chết cháu cũng không chịu xuống núi.

Thấy Lỗ Ban nói kiên quyết như vậy, cụ già rất thán phục. Cụ cười nói:

– Cháu hãy mang theo chiếc dao rừng này của lão để chặt cây phá đá thì có thể leo lên đỉnh núi nhanh chóng được.

Lỗ Ban sung sướng vô cùng cúi đầu bái tạ cụ già, nhận dao rồi đi lên núi. Ngọn dao nhẹ phạt trên mặt đất, gai góc và đá nhọn đều sạch quang, Lỗ Ban đã mau chóng leo lên được đỉnh núi.

Chàng treo dao vào một cây cổ thụ, nhảy lên lưng ngựa đi thẳng theo con đường lớn về phía Tây. Lỗ Ban đi mười ngày nữa, lại vượt được ba nghìn dặm đường, tới chỗ tận cùng con đường cái quang đãng. Trước mặt là một con sông lớn chảy ngang qua. Nước sông xám xịt, ném một hòn đá xuống, hồi lâu vẫn không gợn chút bọt nước. Lỗ Ban buồn rầu gò cương đứng lại. Giữa lúc đó, chợt có một chiếc thuyền con từ bờ bên kia chèo sang, trên thuyền có một anh chài trẻ tuổi. Lỗ Ban xuống, dắt ngựa bước lên, cúi đầu vái chào:

– Anh ơi, từ đây đến núi Chung Nam còn bao xa nữa.

Anh chài giơ tay chỉ:

– Chà, đi thẳng thì còn ba nghìn dặm, đi đường vòng thì còn sáu nghìn dặm, muốn tìm con đường thuận tiện nhất thì phải vượt qua được dòng sông lớn này.

Lỗ Ban hỏi tiếp: Anh ơi, anh có cách gì giúp tôi qua sông không?

Anh chài chau mày:

– Không được đâu! Sông rộng nước sâu, từ xưa tới nay dòng sông này đã dìm chết không biết bao nhiêu người qua đường rồi.

Lỗ Ban nói:

– Không sợ nước sâu trông không thấy đáy, không sợ sông rộng đến tận chân trời. Không vượt qua được dòng sông lớn này thì có chết tôi cũng chẳng chịu quay về.

Thấy Lỗ Ban kiên cường như vậy, anh chài cười nói:

– Thôi chú em, hãy dắt ngựa xuống thuyền đi, tôi sẽ đưa chú qua sông.

Lỗ Ban qua sông, lại phi nhanh trên con đường lớn. Lướt gió đuổi theo măt trời mười ngày nữa, ba nghìn dặm đường đã lùi lại phía sau. Lại đi tới chỗ tận cùng con đường lớn. Trước mặt là một dãy núi cao. Lỗ Ban thầm nghĩ: “Dãy núi cao này là núi Chung Nam chăng?”. Đỉnh núi nhấp nhô, hàng nghìn con đường nhỏ khúc khuỷu quanh co. Đi theo đường nào lên núi được?

Lỗ Ban lại buồn rầu đứng lại. Giữa lúc đó chàng chợt nhìn thấy ở dưới chân núi có một ngôi nhà nhỏ, trước cửa có một bà cụ đang ngồi xe chỉ. Lỗ Ban liền dắt ngựa đi lên, cúi đầu vái chào:

– Thưa cụ, núi Chung Nam còn cách đây bao xa nữa?

Bà cụ đáp:

– Đi thẳng thì còn một trăm dặm, đi vòng thì còn ba trăm dặm nữa. Ba trăm ngọn núi, có ba trăm vị thần tiên: cháu muốn tìm vị nào?

Nghe nói vậy Lỗ Ban sung sướng vô cùng liền đáp:

– Cháu muốn tìm vị tổ sư nghề mộc. Chẳng hay phải đi theo đường nào ạ?

Bà cụ nói:

– Chín trăm chín mươi chín con đường nhỏ, con đường chính giữa là đường đi đó!

Lỗ Ban luôn miệng cảm tạ, rồi bắt đầu đếm từ phía bên trái bốn trăm chín mươi chín con đường, lại đếm từ phía bên phải bốn trăm chín mươi chín con đường, chàng bước lên con đường nhỏ ở chính giữa, cưỡi ngựa phi thẳng lên núi.

Lên tới đỉnh núi, Lỗ Ban chỉ thấy một nóc nhà lồi lõm ẩn hiện dưới rừng cây, lại gần thấy một ngôi nhà nhỏ ba gian. Lỗ Ban khẽ đẩy cửa bước vào, trong nhà rìu mẻ đục cùn bày la liệt trên mặt đất không còn chỗ len chân. Nhìn lên giường, Lỗ Ban thấy có một ông già đầu tóc bạc phơ đang nằm dang chân ra ngủ, tiếng ngáy vang như sấm. Lỗ Ban nghĩ thầm: “Ông cụ này chắc là ông tổ nghề mộc”.

Không dám làm kinh động tới giấc ngủ của thầy, Lỗ Ban lẳng lặng thu những rìu cùn cưa mẻ xếp vào trong một chiếc thùng gỗ, rồi ngồi ngay ngắn trên chiếc ghế dài chờ ông cụ tỉnh dậy.

Ông già ngủ rất say, trở mình mấy lần rồi mà vẫn chưa thức giấc. Cho tận tới lúc mặt trời gác núi, ông già mới mở mắt ngồi dậy. Lỗ Ban bước lên, quỳ ngay xuống nền nhà nói:

– Thưa thầy, kẻ học trò này hôm nay đến bái yết thầy, cầu mong thầy thu nhận, dạy nghề cho.

Cụ già hỏi:

– Ngươi tên là gì? Từ đâu tới?

Lỗ Ban đáp:

– Con là Lỗ Ban, từ Lỗ Gia Loan, cách đây ngoài vạn dặm tới.

Cụ già lại hỏi:

– Đi học nghề, tại sao lại tìm đến ta?

Lỗ Ban trả lời rành rọt:

– Vì thầy là ông tổ của nghề mộc.

Cụ già ngừng một lát rồi nói:

– Ta phải hỏi ngươi một chút đã, nếu trả lời đúng ta sẽ thu nhận, nếu trả lời không đúng thì đừng trách ta không nhận, đến như thế nào thì cứ như thế ấy mà trở về.

Lỗ Ban giật mình:

– Nếu hôm nay: con trả lời không được, xin thầy để cho ngày mai. Hôm nào trả lời được xin thầy thu nhận cho vào học từ hôm ấy.

– Có mấy cột cái, có mấy cột quân, có mấy hàng rui, có mấy hàng mè?

Lỗ Ban trả lời ngay:

– Một ngôi nhà ba gian bình thường có ba cột cái, có ba cột quân, lớn nhỏ có hai mươi hàng rui, một trăm hàng mè. Từ khi lên năm con đã đếm kỹ.

Cụ già khẽ gật đầu, hỏi tiếp:

– Cùng một môn học, có người học ba tháng đã xong, có người phải học ba năm mới biết; vậy ba tháng và ba năm bắt nguồn từ ở đâu?

Lỗ Ban nghĩ một lát rồi đáp:

– Ba tháng học xong nghề, bắt nguồn từ con mắt; ba năm học xong nghề, bắt nguồn từ lòng mình.

Cụ già khẽ gât đầu, hỏi tiếp câu thứ ba:

– Một người thợ mộc dạy nghề cho hai học trò. Học trò lớn múa rìu một cái đã thu về được hàng núi bạc, học trò thứ hai múa rìu một cái đã khắc được tên mình trong lòng người. Nếu ngươi học xong nghề, sẽ đi theo người nào?

Lỗ Ban trả lời ngay:

– Con sẽ đi theo người thứ hai!

Cụ già thôi không hỏi nữa, cụ nói:

– Thôi được, ngươi đã trả lời đúng, ta sẽ nhận làm học trò. Nhưng có việc này là muốn học nghề của ta thì phải dùng được “đồ nghề” của ta. Những đồ dùng đó đã năm trăm năm nay chưa đổi, ngươi hãy mang đi sửa chữa.

Lỗ Ban đứng dậy, xách chiếc hòm gỗ đựng đồ nghề đặt xuống bên một hòn đá mài, lấy từng thứ ra. Lúc này chàng mới nhìn kỹ: lưỡi rìu đã mẻ, lưỡi cưa cùn không còn một răng nào, hai chiếc đục thì vừa cong vừa cùn hoen rỉ hết cả. Lỗ Ban không chút ngại ngần, xắn tay áo, bắt đầu mài. Chàng mài ngày, mài đêm, mài cho tới lúc hai cánh tay tê đại, hai bàn tay sưng phồng, hòn đá mài vừa dày vừa cao giờ đã mài lõm xuống như hình mặt trăng lưỡi liểm. Lỗ Ban mài luôn bảy ngày bảy đêm, lưỡi rìu đã sắc, răng cưa đã nhọn, đục đã hết hoen ri, mọi thứ “đồ nghề” đều đã mài sắc bén sáng loáng. Lỗ Ban đem từng thứ đưa cho cụ già xem. Cụ già chỉ khẽ gật đầu chẳng nói một lời được hay không được. Sau cùng cụ già nói:

– Để thử xem lưỡi cưa mài như thế nào, ngươi hãy ra cưa cho đổ cây cổ thụ mọc ở phía cửa. Cây này sống đã tròn năm trăm năm rồi.

Lỗ Ban vác cưa ra gốc cây cổ thụ. Thân cây lớn hai người ôm không xuể, ngọn cây cao vút tưởng như chạm tới trời xanh. Lỗ Ban ngồi dưới gốc cây bắt đầu cưa. Chàng cưa vừa đúng mười hai ngày mười hai đêm, mới cưa đổ được cây cổ thụ. Lỗ Ban mang cưa vào gặp cụ già. Cụ già lại nói:

– Để thử xem lưỡi rìu mài như thế nào, ngươi hãy đem rìu ra đẽo cây gỗ này cho thành một chiếc xà lớn. Phải đẽo cho nhẵn nhụi không còn một vết xơ và tròn như trăng đêm rằm.

Lỗ Ban quay mình mang rìu đi ra. Rìu vung lên chặt cụt các cành, bóc hết lớp vỏ cây. Đẽo gọt vừa đúng mười hai ngày mười hai đêm mới xong được chiếc xà lớn, Lỗ Ban mang rìu vào gặp ông cụ. Ông cụ lại nói:

– Chưa xong, để thử xem lưỡi đục mài như thế nào, ngươi hãy đem đục ra đục chiếc xà lớn thành hai nghìn bốn trăm lỗ: sáu trăm lỗ vuông, sáu trăm lỗ tròn, sáu trăm lỗ ba cạnh, sáu trăm lỗ hình thoi.

Lỗ Ban mang đục ra đục luôn. Vụn gỗ bay tả tơi, chàng càng đục càng thấy khoẻ ra. Đục vừa đúng mười hai ngày mười hai đêm, hai nghìn bốn trăm lỗ đục đã làm xong, Lỗ Ban mang đục vào gặp cụ già. Cụ già cất tiếng cười sung sướng, bước vội khỏi ghế, đón chiếc đục trong tay Lỗ Ban, lau mồ hôi trên mặt chàng rồi nói:

– Con yêu quý, không có gì làm con ngã lòng được! Ta sẽ đem tất cả nghề ta ra truyền dạy cho con!

Nói đoạn, cụ dẫn Lỗ Ban tới gian phòng phía Tây. Vừa bước vào, Lỗ Ban đã hoa cả mắt, phải mở to ra nhìn. Trong gian phòng này bày không biết bao nhiêu là hình mẫu, trong đó có đủ các loại nhà gác nhà lầu, cầu, tháp, bàn ghế, hòm tủ, cái nào cũng làm rất tinh vi. Cụ già cười nói:

– Con hãy tháo từng chiếc ra rồi lắp vào, mỗi hình mẫu tháo ra một lần lắp lại một lần. Tháo lắp thành thạo là nghề con cũng giỏi. Con hãy chuyên tâm mà học, ta chẳng nói nhiều.

Lỗ Ban cầm hình mẫu, lật đi lật lại xem xét, đặt ở trên tay chắng muốn buông rời. Thầy bảo tháo lắp một lần, Lỗ Ban tháo lắp tới ba lần. Ngày ngày chỉ thấy chàng vào trong phòng mà không thấy ra. Cơm để nguội cũng chẳng buồn ăn, tay chân mỏi rã rời cũng chẳng muốn nghỉ ngơi. Ngày ngày trước khi đi ngủ, cụ già đến thăm thì thấy Lỗ Ban vẫn ngồi tháo lắp trong phòng. Khi ngủ dậy, cụ đến thăm thì thấy Lỗ Ban hãy còn ngồi tháo lắp ở đó. Khi cụ già giục Lỗ Ban đi ngủ, chàng chỉ “dạ dạ…” nhưng tay vẫn nắm các hình mẫu không buông. Cứ như vậy, Lỗ Ban đã kiên trì trong suốt ba năm học được thành tài.

Thầy dạy muốn thử xem chàng học như thế nào, liền đem hủy tất cả các hình mẫu, nhưng Lỗ Ban nhờ vào trí bền bỉ của mình, đã lần lượt dựng lại được tất cả các hình mẫu. Cụ già lại đưa ra nhiều kiểu mới cho Lỗ Ban làm. Chàng chăm chú suy nghĩ một lát rồi rất nhanh chóng dựng nên các hình mẫu mới theo ý muốn của cụ già. Cụ già rất vừa ý. Một hôm cụ già gọi Lỗ Ban tới, lưu luyến nói với chàng:

– Con thân yêu, ba năm đã qua, nghề con cũng đã học thành tài, hôm nay con phải xuống núi thôi.

Lỗ Ban thấy lạnh hẳn một bên lòng:

– Thưa thầy, con chưa học thành nghề, xin thầy cho con học thêm ba năm nữa!

Cụ già cười:

– Sau này con hãy tự học lấy, hôm nay thế nào con cũng phải xuống núi thôi. Học trò sắp ra đi, thầy biết cho cái gì đây?

Cụ già nghĩ một lát rồi nói:

– Thôi được, rìu cưa đục con đã mài, ta đem tặng cho con mang theo mà dùng.

Lỗ Ban ngồi lặng đi, nhìn thầy mà khóc:

– Đứa học trò nghèo khổ này không biết lấy gì để lại tặng thầy…

Cụ già cười khanh khách:

– Ta không lấy gì của con cả, chỉ mong con đừng làm mất thanh danh của thầy là được rồi.

Lỗ Ban rưng rưng nước mắt, bái biệt thầy, xuống núi. Trên đường trở về, Lỗ Ban không tìm thấy bà cụ già chỉ đường, không gặp anh chài đưa chàng qua sông, không thấy ông già tiều phu cho chàng mượn dao vượt núi. Để đền đáp ân tình của họ, Lỗ Ban liền dựng một tòa miếu lớn ở dưới chân núi Chung Nam, bắc một chiếc cầu lớn qua sông rộng, xây một chiếc tháp lớn trên ngọn núi cao lần đầu tiên vượt qua. Truyền rằng những công trình xây dựng này ngày nay vẫn còn.

Lỗ Ban về nhà, gặp lại cha mẹ. Chàng nhớ lời dặn của thầy, mang những đồ dùng của thầy cho, đi làm nhiều việc có ích cho nhân dân, còn lưu lại những câu chuyện rất cảm động. Sau này, mọi người tôn thờ Lỗ Ban làm ông tổ của nghề mộc.

14. Con gà trống chân chì

Con gà trống ấy có đôi chân chì, lông ở cánh đen mượt như nhung, lông ở ngực vàng thắm, cái mào trên đầu thì đỏ chói, vắt qua vắt lại.

Tiếng nó hay ồ ồ, vang rất xa. Nó sống với bà già cô đơn trong một túp lều nát.

Cả ngày nó bới đất tìm giun, nhặt hạt thóc rơi, thỉnh thoảng chui vào vườn, vặt vài lá cải non hoặc quả cà chua chín.

Bà già trông thấy, cũng chỉ giơ tay khoát khoát xua đi, chứ không hề ném đá. Bà thương nó như thương đứa cháu nội.

Một hôm, nó bới đất thì bới được một đồng tiền vàng. Nhà vua biết, bèn ra lệnh:

– Nạp vào kho! Đất này là đất của ta. Cái gì ở đây, của chìm hay của nổi, thuộc về ta cả.

Con gà không chịu. Nó kêu quang quác:

– Không! Không! Của bà tôi! Của bà tôi!

Nhưng nhà vua cứ lấy bằng được, đem về cung. Nó theo về cung, nhảy lên bờ thành, đứng gào:

Cộc cồ cô… ô… ô…

Vàng của bà ta

Cất giấu ở đâu?

Mau mau đem trả!…

Cứ thế, nó gào từ sáng đến trưa. Nhà vua tức lắm, sai linh bắt con gà, dìm xuống giếng cho chết. Nhưng con gà không chết. Nó hút hết nước trong giếng, lại bay vào đậu ngay trước của sổ mà gào:

Vàng của bà ta

Cất giấu ở đâu?

Mau mau đem trả!…

Nhà vua sai lính bắt con gà bỏ vào lò quay, đốt lửa lên. Con gà phun nước trong bụng ra, dập tắt lửa. Nhà vua triệu tập quần thần lại, mắng:

– Con gà bé tí mà không ai làm gì được hay sao? Bắt nhốt nó vào tổ ong cho ong đốt, xem nó có câm miệng hay không?

Quần thần bủa ra bắt gà, nhốt vào tổ ong. Bao nhiêu ong trong tổ, gà mổ sạch, rồi lẻn vào phòng nhà vua, nhà bầy ong trong bụng ra cho đốt nhà vua sưng cả mặt mũi. Lần này, nó đậu lên vai nhà vua, gào vào tai. Nhà vua hoảng quá, đành phải sai lính mở kho, lấy đồng tiền vàng trả cho gà.

Gà đem đồng tiền vàng về đưa cho bà, bà bán đi, tậu một cái trại, nuôi nhiều lợn, nhiều bò, nhưng bà không quá con nào hơn con gà trống chân chì ấy.

15. Đẽo cày giữa đường

Xưa có một người thợ mộc bỏ ra ba trăm quan tiền về mua gỗ để làm cái nghề đẽo cày mà bán. Cửa hàng anh ta mở bên đường. Ai qua đó cũng ghé vào coi.

Người này thì nói: “Phải đẽo cho cao, cho to, thì mới dễ cày“. Anh ta cho là phải, đẽo cày vừa to vừa cao.

Người khác lại nói: “Có đẽo nhỏ hơn, thấp hơn thì mới dễ cày“. Anh ta cho là phải, lại đẽo cày vừa nhỏ, vừa thấp.

Sau lại có người bảo: “Nay ở trên ngàn, hiện có người đang phá hoang bao nhiêu đồng ruộng và cày tính bằng voi cả. Nếu đẽo cày cho thật cao, thật to gấp đôi gấp ba thế này để voi cày được, bày ra hàng bán thì chắc là bán được nhiều lắm, mà rồi lãi vô vàn“.

Người thợ mộc nghe nói, liền đẽo ngay một lúc bao nhiêu cày to gấp năm, gấp bảy thứ thường bày ra bán. Nhưng qua bao nhiêu ngày tháng, chẳng thấy ai đến mua cho một cái nào, cũng chẳng thấy ai nói voi đi cày ruộng cả. Thành có bao nhiêu gỗ hỏng bỏ hết và bao nhiêu vốn liếng đi đời nhà ma sạch. Người thợ mộc bây giờ mới biết dễ nghe người là dại. Nhưng quá muộn rồi, không sao chữa được nữa!

Bởi truyện này mới có câu tục ngữ rằng: “Đẽo cày giữa đường” để nói những người hay để tai nghe làm theo thiên hạ đến nỗi mất cả cơ nghiệp.

Lại còn truyện “Đẽo cày giữa đường” nữa, nhưng người thợ trong truyện này trái ngược hẳn với người thợ trong truyện trước.

Truyện rằng: Xưa có người thợ, một hôm, đem gỗ ra giữa đường để đẽo cày.

Thoạt vừa đem gỗ ra, đã có người đi qua hỏi: “Bác làm cái gì đấy?”

Người thợ không ngoảnh ra nhìn, đáp: “À tôi đẽo cái cày“.

Một chốc, mới đẽo được ít nhát, có người đi qua, hỏi: “Bác làm cái gì đấy?”

Người thợ không ngửng đầu lên, đáp: “À tôi đẽo cái chày“.

Chốc nữa, đẽo được một phần ba, có người đi qua hỏi: “Bác làm cái gì đấy?”

Người thợ đầu vẫn cúi, đáp: “À, tôi đẽo chiếc đũa“.

Chốc nữa, đẽo được nửa chừng có người đi qua, hỏi: “Bác làm cái gì đấy?”

Người thợ không ngừng tay, đáp: “À, tôi đẽo cái chìa vôi“.

Lại chốc nữa, đẽo được ba phần, có người đi qua hỏi: “Bác làm cái gì đấy?”

Người thợ hơi phát khùng, vừa làm vừa đáp: “À, tôi đẽo cái tăm xỉa răng“.

Lại chốc nữa, đẽo đã gần xong, có chị đàn bà đi qua cũng lon ton lại hỏi: “Bác làm gì đấy?”

Người thợ vừa nhìn, vừa nhoẻn miệng đáp: “À tôi đẽo cái “vừa đo” “.

Từ đó tịt, kẻ qua người lại, không thấy ai hỏi làm gì nữa, mà người thợ được ngồi yên, làm chu tất xong cái cày.